Thứ Tư, 19 tháng 9, 2012

CHA QUYNH - Con Người - Sự Kiện - Giai Thoại Phần I

Nhân ngày mừng ngọc khánh Linh Mục 60 năm của Đức ông Laurenso Phạm Hân Quynh, tác giả Giuse Nguyễn Khắc Đạt đã cho ra mắt cuốn sách "CHA QUYNH - Con Người - Sự Kiện - Giai Thoại. Cuốn sách phản ánh phần nào về cuộc đời của Cha Quynh gắn liền với Giáo Hội Việt Nam nhất là miền Bắc, có nhiều chuyện mà nếu không đọc cuốn sách này thì bạn không thể nào hình dung ra được một con người đã sống, làm việc, hi sinh vì tình yêu mến Chúa yêu mến Giáo Hội mà phải gánh chịu nhiều đau thương. Qua cuốn sách bạn cũng hiểu thêm về quá trình Giáo Hội nhất là miền Bắc Việt Nam đã trải qua thăng trầm thế nào: Xin đọc cuốn sách này và  giới thiệu cho mọi người cùng đọc. (hãy lưu lại trên máy tính của bạn khi chưa đọc xong, vì trang mạng có thể bị lỗi kĩ thuật)

Lời người chép chuyện
Tôi biết và ái mộ cha Quynh từ đầu năm 1955 tại Hà Nội. Lúc đó tôi là sinh viên năm đầu và khóa đầu của trường đại học Văn khoa. Tôi thường đến Nhà Thờ Lớn Hà Nội để nghe buổi giảng giáo lý cho giới trẻ. Có ba cha luân phiên giảng dạy là cha Thông, cha Oánh và cha Quynh. Cha nào giảng cũng giỏi, cũng hay và rất hấp dẫn vì vấn đề mới mẻ, cập nhật. Cha Quynh vóc dáng nhỏ hơn hai cha kia nhưng lại có tính cách dí dỏm, hóm hỉnh, trẻ trung hơn, nên tôi yêu mến cha nhiều hơn. Tuy nhiên, đó chỉ là tình yêu đơn phương  cha chưa hề biết tôi.
Đến năm 1956, tôi bị đuổi học. Về Hải Phòng được ít lâu, tôi rất vui mừng gặp lại cha ở đây khi ngài theo Đức Giám mục Phêrô Khuất Văn Tạo về phục vụ tại Giáo phận. Giới trẻ chúng tôi gặp cha như cá gặp nước. Riêng tôi với cha không còn là tình yêu đơn phương nữa. Chúng tôi ra vào phòng cha tự do. Ngoài thời gian cha làm mục vụ, chúng tôi cuốn đến bên cha, hỏi chuyện cha đủ thứ. Những chuyện cha kể, chuyện gì cũng hấp dẫn và rất ấn tượng. Trước mắt tôi, cha như một nhân vật huyền thoại. Và tôi có ý định viết về cha từ hồi ấy.
Bấy giờ cha là một linh mục trẻ nhất Hải Phòng, mới tròn 30 tuổi. Giới trẻ Hải Phòng chúng tôi sống quấn quýt bên cha. Có những ngày êm đềm lễ hội, cũng có những ngày biển động bão dông, cha con cùng sát cánh bên nhau với bao kỉ niệm thân mến khó quên.
Thế rồi ngày 8.10.1960, cha bị bắt đi một lèo 28 năm liền. Còn tôi một năm sau đó cũng bị bắt đi tù biệt xứ 17 năm không án. Những năm dài triền miên sống cảnh tù đầy, chúng tôi giống như những người lính giữa chiến trường, bởi vì ở đó có sự va chạm căng thẳng, quyết liệt giữa cái sống và cái chết, anh hùng và phản bội, dũng cảm và hèn nhát, tàn bạo và nhân ái…ở đó chất người hiện lên rõ nhất. Tuy nhiên, vì thời gian mịt mù nên con người rất dễ mắc các chứng bệnh thần kinh, loạn trí!
Với thời gian xa cách dài không gặp, cha con tôi hầu như không biết chút tin tức gì về nhau. Phần tôi, ra tù thì đã hết tuổi thanh xuân, hết mơ ước hão huyền, trước mắt phải lo vật lộn với cuộc sống nghiệt ngã để khỏi đói, khỏi rách và để có một mái ấm gia đình. Mặc dầu vậy, đôi khi tôi vẫn tình cờ bắt gặp đây đó những mẩu chuyện kể về cha. Những người giáo dân kể về cha đã đành, đằng này cả người ngoài Đạo nữa. Nói chung, đủ mọi tầng lớp: người bình dân, người trí thức, cán bộ quan chức, nhà doanh nghiệp và cả công an…Hình như đã là người Hải Phòng thì phải biết vài mẩu chuyện về cha Quynh. Thậm chí trong cuốn tiểu thuyết CON CHIÊN LẠC BÀY tác giả đã dựng hẳn một chương nói về cha, dù chưa gặp cha lần nào.
Thế là tôi lại có ý định viết về cha. Giờ thì không phải là mơ ước hão huyền. Đấy là tâm huyết đời tôi. Tôi nghĩ không khó lắm, chỉ cần chắt lọc vài trăm chuyện để lấy vài chục chuyện đặc sắc, với tựa đề CHUYỆN CHA QUYNH, đại loại như CHUYỆN TRẠNG QUỲNH vậy. Đương nhiên những mẩu chuyện đó cha kiểm chứng lại.
Đó là dự định ban đầu là như thế, nhưng Càng về sau, tôi nghĩ càng không ổn. Cha Quynh là một cây đại thụ của Giáo Hội Miền Bắc Việt Nam. Cha trí tuệ uyên bác, tư tưởng luôn đi trước thời đại, song lại rất khiêm nhường. Cha là một chân tu mẫu mực, luôn sống giản dị, thực sự là linh mục của người nghèo, coi người nghèo là ruột thịt, là tài sản của Giáo Hội như thánh Laurenxô quan thầy người. Cha Quynh còn nhiều phẩm chất ưu việt khác nữa như,sống triệt để tinh thần Phúc Âm, noi gương thầy Giêsu từ lời nói đến việc làm, tha thiết yêu quê hương đất nước, sống kiên cường không ngại hy sinh gian khổ…
Vì thế, khắc họa được chân dung cha Quynh lên trang sách không chỉ đơn giản là ghi chép vài chục câu chuyện tầm phào, hoặc viết theo lối biên niên sử khô khan. Tôi cảm thấy thực sự khó khăn đuối sức. Vả lại, cuộc sống tôi còn chật vật để lo kiếm miếng ăn hàng ngày. Đạp xích lô từ sáng đến tối mới về. Có đêm chong đèn giở giấy bút ra ghi chép về cha, song cứ ỳ ạch hoài. Bê con chữ lên giấy thấy khó khăn nặng nề hơn bê bao đường, bao xi măng 50kg lên xe xích lô!
Dầu sao cái khó nhất vẫn là chưa được sự đồng thuận của cha. Có lần tôi đã ướm ý cha xin được viết sách, được cha giúp đỡ, cung cấp những tư liệu về đời sống và hoạt động của cha, nhưng cha từ chối. Cha bảo bây giờ còn nhiều việc cần phải làm hơn. Và ngài cũng tỏ vẻ không tin tưởng ở khả năng của tôi. Ngài chê kiến thức tôi còn nhiều điều chống hổng. Tôi vẫn “cố đấm ăn xôi” thưa: “Con cũng biết là chống hổng nhưng nếu được cha chỉ bảo dạy dỗ thì cũng bớt sự chống hổng dần dần trong đầu”. Tôi cố thuyết phục cha: “Cha đã già yếu rồi, chẳng biết Chúa gọi về lúc nào. Sau này con biết hỏi ai mà viết, mà xác minh kiểm chứng tư liệu.”
- Ồ thiếu gì người biết. Có những vấn đề lịch sử đã qua đi hàng trăm năm, người ta vẫn lần mò ra được cơ mà.
- Vâng! Có thể là như thế, nhưng phải vất vả, tốn nhiều công sức. Và vẫn phải dựa vào chứng tích chống hổng của người đương thời như con mà lần mò.
Sau bữa gặp ấy, tôi như bị gáo nước lạnh giội vào bầu nhiệt huyết viết sách. Hàng chục năm lại lặng lẽ qua đi. Thời kì này, ở nhà thờ Chính tòa, cha xứ Antôn Hiệu có sáng kiến độc đáo là thành lập NHÓM CỘNG SỰ. Nhóm có khoảng hai chục người, phần lớn là trí thức trẻ. Tôi thăm dò được vài bạn trong nhóm có cùng chí hướng như tôi. Thế là tôi lại hâm nóng chí viết sách. Bắt tay với mấy bạn này cùng hợp tác, đánh du kích vậy.
Cha Quynh ở mãi Tiên Lãng nhưng rất để tâm đến NHÓM CỘNG SỰ Hải Phòng. Mỗi tháng cha về nhà thờ Chính tòa thường huấn cho hàng linh mục Giáo phận 2 ngày. Nhân thể, cha đến với NHÓM CỘNG SỰ nửa ngày. Nửa ngày đó cha chỉ ngồi để trả lời các câu hỏi của chúng tôi đưa ra. Gồm đủ mọi chủ đề: giáo lý, giáo luật, giáo sử, Kinh Thánh, tình hình Giáo Hội… Đôi khi, trong lúc giải đáp, cha có những mẩu chuyện liên hệ đến bản thân cha. Tôi chỉ đợi có vậy mà chộp lấy. Còn mấy người đồng chí tôi có nhiệm vụ phải moi thêm, càng nhiều càng tốt. Tuy thế, việc đánh du kích này cũng chẳng thắng lợi là bao, chậm chạp lắm!
Năm 2008, có anh Vũ Sinh Hiên ở Sàigòn ra Tiên Lãng thăm cha. Anh là một trí thức Công giáo thứ thiệt, đã tốt nghiệp cao học Viện Đại học Công giáo Đà Lạt. Có lẽ anh Hiên cũng định viết về cha. Cha đã giới thiệu chúng tôi làm quen với nhau. Câu chuyện chúng tôi xoay quanh về cuộc đời cha Quynh, đặc biệt là những năm tháng cha ở Hải Phòng. Qua cuộc trò chuyện chúng tôi nhận thấy mình không chỉ biết mà còn là người đồng hành, người trong cuộc cùng cha ở một số thời điểm nữa. Trước khi trở lại miền Nam, anh Hiên đã khuyến khích chúng tôi viết về cha.
Gần đây, khi đọc bài của anh Hiên trên mạng, tôi mới biết anh được phân công viết một mảng trong bộ Lịch sử Giáo Hội Việt Nam. Đó là mảng lịch sử Giáo Hội Công Giáo miền Bắc thời kỳ đất nước bị chia cắt (1954-1975). Vì thế anh không chỉ đến Hải Phòng mà đã đến khắp 10 Giáo phận miền Bắc để khai thác tư liệu lịch sử. Trong đó cha Quynh- Hải Phòng là điểm nhấn của anh. Vì cha không những là nhân chứng lịch sử, tham gia vào lịch sử, mà còn làm nên lịch sử ở một số thời điểm nhất định. Tôi thầm cám ơn anh Hiên về nguồn gợi hứng quý giá anh đã dành cho tôi.
Đầu năm nay (2011), cha Giuse Nguyễn Văn Thông, chính xứ nhà thờ Chính tòa Hải Phòng, một hôm ngài có hỏi tôi: “Nghe nói, ông từ lâu có ý định viết về cha Quynh, ông viết được đến đâu rồi? Làm sao để sang năm là lễ Ngọc Khánh của cha, quyển sách của ông có thể ra mắt được thì tốt.”
Tôi ngỡ ngàng thưa với cha:
- Con mới ghi chép tản mạn được một số chuyện về cha già, nguồn tư liệu còn thiếu nhiều. Con mong được cha cộng tác giúp đỡ.
- Thì ông hãy cho tôi xem những gì ông đã viết được, tôi mới biết tôi có thể cung cấp cho ông thêm chỗ nào chứ!
- Vâng con rất cám ơn cha. Bây giờ đang bước vào Tuần Thánh, cha con mình bận rộn quá. Đến lễ Phục Sinh con sẽ gửi cha đọc. Mới chỉ là một số ghi chép vụn vặt thôi.
Tôi biết cha Thông quê Tiên Lãng, là con của cha già. Hy vọng cha là nguồn tư liệu có thể giúp đỡ tôi. Tôi thực sự bối rối, bất ngờ và xúc động vì lần đầu tiên tôi có một áp lực thúc tôi viết sách. Mấy chục năm nay tôi chỉ túc tắc được chăng hay chớ một cách âm thầm. Nay cha Giuse còn cho tôi một thời hạn cụ thể là đến Phục Sinh sang năm phải có sách. Đúng rồi, cha Quynh chịu chức linh mục tại Paris lễ Phục Sinh 1952, đến Phục Sinh 2012 là tròn 60 năm.
Thế là tôi bắt tay phác thảo đề cương tập sách một cách nghiêm chỉnh và cụ thể đến từng chi tiết. Tôi chọn tựa đề sách:
CHA QUYNH con người - sự kiện & giai thoại
Vì nội dung tôi ghi chép được bao gồm con người là thân thế, tính cách, tư tưởng, và đời hoạt động không biết mệt mỏi của chaSự kiện là cuộc đời cha không chỉ là chuyện cá nhân mà còn gắn với sự kiện lịch sử của Dân Tộc và lịch sử Giáo Hội Công Giáo Việt Nam. Còn giai thoại là những mẩu chuyện lí thú được lưu truyền rộng rãi, có cốt chuyện người thật việc thật nhưng qua truyền miệng có thể đã có sự thêm bớt. Mấy giai thoại tôi chép vào đây không đơn thuần chỉ là những mẩu chuyện tầm phào, nhưng có giá trị khắc họa thêm cốt cách con người của cha. Một số chân dung nhân vật cũng có giá trị tương tự như vậy.
Đối với tôi, thời gian mười tháng để hoàn thành tập sách về cả cuộc đời một nhân vật như cha Quynh là một điều khó khăn. Bởi vì tôi không phải là người viết chuyên nghiệp. Câu chuyện về cha trong tay tôi còn đứt đoạn nhiều cần phải có thời gian sưu tầm bổ sung thêm để ráp nối cho liền mạch và theo trình tự thời gian. Tôi cũng cần phải tìm đọc một số sách báo tham khảo nữa, nhất là những tác phẩm thần học tâm đắc của cha. Viết về cha Quynh mà bỏ qua mảng này tôi nghĩ là một thiếu sót lớn. Song đây lại là lãnh vực tôi non yếu, nói chính xác là mù tịt. Hy vọng sau này có những bậc trí tuệ Công giáo sẽ khai mở bổ sung phần tôi còn thiếu sót.
Như vậy nội lực tôi chẳng đáng kể gì. Chỉ vì yêu mến cha già và yêu mến Giáo Hội mà tôi gồng mình lên cố viết. Mỗi khi tôi ngồi vào bàn vi tính gõ từng con chữ, tôi không quên cậy nhờ Thần Trí Chúa trợ giúp thần trí tôi. Hầu viết ra trong sự thật, đẹp ý Chúa và có chút ích lợi cho người đọc.
Cuối cùng xin được bày tỏ lòng biết ơn đến các cha và những ai đã cung cấp dữ liệu cùng khích lệ tôi viết. Đặc biệt cám ơn mấy thân hữu trong NHÓM CỘNG SỰ, anh Phêrô Chinh, hai bạn trẻ Visentê Viễn và Maria Chuyên. Cũng xin được cám ơn các tác giả có sách, bài viết trên mạng mà tôi đã tham khảo, trích dẫn song chưa có hân hạnh được quen biết.
Xin Thiên Chúa thưởng công cho những người có thiện chí, có lòng yêu mến Chúa và yêu mến Hội Thánh của Ngài.
Hải Phòng, lễ Phục Sinh 2011

CHƯƠNG MỘT
THỜI THƠ ẤU
TẠI QUÊ HƯƠNG VÀ
GIA ĐÌNH
Cha Laurenxô Phạm Hân Quynh sinh ngày 30. 8. 1926
Tại xã Trì Chính, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình
Thuộc giáo xứ Trì Chính, Giáo phận Phát Diệm
Thân phụ là cụ cố Giuse Phạm Văn Xứng
- Tạ thế năm 1952
Thân mẫu là cụ cố Rôsa Đỗ Thị Tiếc
- Tạ thế năm 1985
Cha con cả trong một gia đình có 4 anh chị em
Ba người em kế tiếp của cha Quynh là:
Rôsa Phạm Thị Tố Quyên,
Laurenxô Phạm Mạnh Quang,
và Laurenxô Phạm Tự Quán,
Cả ba người em của cha đã qua đời.
1. GIÁO XỨ TRÌ CHÍNH
Giáo xứ Trì Chính – mảnh đất quê hương của cha nằm bên bờ sông Vạc, ngay gần cửa ngõ nhà thờ Chính tòa Phát Diệm, một quần thể kiến trúc tôn giáo độc đáo và nổi tiếng toàn quốc. Người Công Giáo Việt Nam không mấy ai là chưa một lần hành hương đến nhà thờ Phát Diệm. Song giáo xứ Trì Chính chỉ cách đó chừng 1000 mét thì lại ít người biết đến. Điều này cũng đúng thôi, vì như tôi, nếu không bởi Trì Chính là quê hương của cha Quynh thì tôi cũng chẳng tìm đến mảnh đất này làm gì.
Tôi đến giáo xứ Trì Chính ngày 23/4/2008, vào dịp đại lễ KHAI MẠC NĂM THÁNH kỷ niệm 100 năm thành lập giáo xứ (1908-2008). Do đó, tôi đã dễ dàng ghi chép được chút tư liệu về giáo xứ quê hương của cha. Nhà thờ Trì Chính được xây dựng năm 1890, đặt hướng nhìn ra dòng sông Vạc. Năm 1908, Đức cha Alexandre Marcou (Thành) nâng cấp Trì Chính lên hàng giáo xứ.
Trì Chính là mảnh đất quê hương của nhiều linh mục, nam nữ tu sĩ. Đặc biệt, Đức cha Gioan Baotixita Phan Đình Phùng, Giám mục tiên khởi người Phát Diệm cũng sinh trưởng tại giáo họ Kiến Thái thuộc giáo xứ Trì Chính.
Nơi đây cũng là mảnh đất có nhiều cơ sở tu trì, đào tạo, in ấn, nghỉ mát của giáo phận Phát Diệm. Nhà in Lê Bảo Tịnh, trụ sở Nguyệt san Đường Sống, dòng kín Carmel, là những nơi cậu bé Quynh có những kỉ niệm sâu sắc, dấu chỉ ơn gọi tận hiến sau này.
Trì Chính, mảnh đất giàu truyền thống đạo đức và văn hóa ấy, đã sớm hun đúc nên bản sắc cậu bé Quynh ngay từ thuở còn thơ ấu. Để rồi cậu cất cánh vào đời không biết mệt mỏi.
2. GIA ĐÌNH VÀ VÀI KỈ NIỆM KHÓ QUÊN
Lí do bố không đi lễ ở nhà xứ mình
Hồi cậu bé Quynh mới bảy tám tuổi, mỗi khi đi lễ về, bố lại hỏi cậu: Hôm nay lễ gì? Cha đọc bài Evan nào? Và giảng ra làm sao? Tuy bố không đi lễ song vẫn dõi theo để nắm kĩ ý từng buổi lễ. Nhiệm vụ của cậu là phải tường thuật lại nội dung lễ cho bố một cách rành rọt.
Lí do bố cậu không đi lễ ở nhà xứ mình là vì một chuyện sau đây: Hồi ấy cha xứ Trì Chính người Tây tên là SuBay (Soubeyre) có xây một ngôi nhà ở đồ sộ to cao hơn nhà thờ. Bố cậu tỏ ý khó chịu mới lấy mẩu ngói non viết lên tường mới nhà cha:
Trì Chính có sự lạ thay!
Nhà Chúa thì bé
Nhà cha Su Bay…ngất trời. (?!)
Cha xứ rất tức và đoán biết chỉ có ông Xứng viết chứ chẳng còn ai khác. Nhưng gọi ông này vào nhà xứ để răn đe thì chắc ông ta không vào, mà ra nhà ông ấy thì mình bị yếu thế. Cuối cùng cha xứ đã dùng bục giảng nhà thờ trong Thánh lễ để phản kích, nhân tiện còn dạy bảo các con chiên khác không được bắt chước hỗn láo, châm chọc, xúc phạm đến các đấng chủ chăn.
Và cũng từ ấy, bố cậu Quynh không đi lễ ở Trì Chính, các Chúa nhật và ngày lễ trọng, ông đều sang nhà thờ Chính tòa Phát Diệm dự.
***
Lời hứa với mẹ không để say rượu
Nhóm cộng sự chúng tôi thỉnh thoảng có dịp được chè chén với cha già một bữa. Bia rượu, cha không từ chối, nhưng chỉ uống hết một lần rót rồi thôi. Cha có lệ là không uống cốc thứ hai. Chúng tôi đã gặng hỏi cha, được cha giải thích lệ này có từ khi lên bảy tuổi để thực hiện lời hứa với mẹ.
Chuyện là hôm đó nhà cậu Quynh có giỗ. Mấy ông chú, ông bác của cậu Quynh ngồi lại chè chén đến khuya mới về. Vì anh em vui vẻ nên quá chén, đường về lại gập ghềnh không trăng không sao, các tướng đã bị ngã lộn nhào xuống ruộng bùn cả. May có mấy người làng thấy được, liền dìu trở lại nhà cậu để tắm rửa, thay đồ. Mẹ cậu Quynh thấy vậy xấu hổ với làng xóm quá, đã tâm sự với cậu:
- Con thấy chưa? Làm người mà chè chén say sưa đến độ này thì thật là…chẳng còn ra thể thống gì nữa. Con hãy nhớ tránh gương xấu ấy. Mẹ khuyên con lớn lên đừng bao giờ uống rượu.
Cậu Quynh đáp lời mẹ:
- Thưa mẹ, con nghĩ đôi khi vì phép lịch sự, vì muốn chan hòa tình cảm với người xung quanh, mình từ chối uống rượu là không nên, song con hứa với mẹ: con chỉ uống một chén thôi, không bao giờ được phép để mình say.
- Được! Con nhớ giữ lời hứa đó nhá.
Lời hứa với mẹ từ năm lên bảy tuổi, đến nay cha đã 85 tuổi, ngài vẫn giữ lời.
3. BUỔI ĐẦU GIÚP LỄ
Có lần cha Quynh nói chuyện với chúng tôi về việc xây dựng đội ngũ giúp lễ. Ngoài việc giúp lễ ra còn phải quan tâm đến việc học hành của các chú ra sao. Nhân đấy tôi quay sang moi chuyện cha:
- Bữa trước bố nói năm 18 tuổi bố mới đi tu. Nhưng nghe chuyện bố cũng giúp lễ từ khi còn bé?
- Phải. Tôi giúp lễ từ năm lên 9 tuổi. Nhưng giúp lễ thì chưa phải là đi tu. Bây giờ cũng thế thôi. Ở quê tôi có một nhà dòng kín và có một ông cha người Bỉ đến dâng lễ tại đó. Tôi rất thích đến nhà dòng này dự lễ vì cảm thấy ở đây có một cái gì êm ái thánh thiêng hơn nơi nhà thờ xứ mình.
Một hôm, đến giờ lễ, đèn đã bật sáng hết, vẫn chưa thấy cha ra. Sau đó thấy một chị nữ tu đi từ trên xuống, đến chỗ tôi thì dừng lại và hỏi: “Em có biết giúp lễ không?” Tôi đáp: “Em chưa giúp lễ bao giờ. Nhưng chắc rằng em sẽ giúp được”. Chị nữ tu dẫn tôi vào buồng áo, đưa cho tôi một tờ bìa có in các câu Latinh mà người giúp phải đọc đối đáp với chủ tế. Tôi liếc qua, chẳng thấy khó khăn gì. Không những tôi đọc được dễ dàng mà còn hiểu được nghĩa nữa. (Vì chữ Latinh đọc như chữ quốc ngữ, còn nghĩa thì tương tự như chữ Pháp, mà tôi đã thông thạo tiếng Pháp).
Thế là buổi đầu tiên tôi được giúp lễ coi như êm xuôi tốt lành. Hôm đó vì cậu giúp lễ bị ốm đột xuất nên phải kiếm tôi thay. Nhưng từ đấy tôi được mời bổ sung chính thức vào thành cặp đôi với cậu kia. Tôi được ông cha người Bỉ và các nữ tu nhà dòng đều tỏ ý yêu mến.
4. SUẤT HỌC BỔNG ĐẶC BIỆT
Nhân cha con đang vui chuyện, tôi tiếp tục gợi hỏi thêm:
- Lúc ấy ở gia đình, bố vẫn còn đang đi học ạ?
- Không. Khi ấy tôi chẳng học hành gì cả. Các trường tiểu học ở làng, xã tôi đã học hết lớp cả rồi. Bây giờ muốn học nữa thì phải lên tỉnh, mà gia đình tôi thì đang lâm vào cảnh nghèo túng. (Trước kia, gia đình tôi vẫn thuộc loại khá trong làng, song lúc ấy đang gặp cảnh sa sút).
- Chắc là ông cha Bỉ yêu mến bố, sẽ trợ giúp bố việc
học hành?
- Chính thế. Nhờ ông cha Bỉ mà tôi đã được một xuất học bổng đặc biệt rất bất ngờ. Câu chuyện là thế này:
Một hôm có một cụ già mặc áo dài trắng, lễ xong cụ đón cha ở cửa buồng áo. Thấy tôi, cụ hỏi: “Cha có nghe được tiếng Ta không?” Tôi lắc đầu, rồi bảo cụ: “Nếu cụ có điều gì muốn thưa với cha thì cụ cứ nói bằng tiếng Việt đi rồi cháu sẽ nói lại bằng tiếng Pháp cho cha nghe. Cụ ấy liền nói là cụ có một số tiền khá lớn, muốn cúng cho cha để cha sử dụng việc gì thánh thiêng, bác ái tuỳ cha.
Vừa lúc đó, cha trong buồng áo ra, tôi đã dịch thuật lại sự thể cho cha nghe. Cha mỉm cười, bảo tôi nói lại với cụ ấy đại ý: “Thằng bé này nhà nó nghèo lắm. Nếu cụ bằng lòng thì cha sẽ dùng số tiền này để nuôi nó ăn học”. Nghe tôi nói lại, cụ liền gật đầu tỏ ý vui vẻ.
Riêng tôi thì vừa ngường ngượng, vừa sung sướng, bất ngờ.

CHƯƠNG HAI
TỪ BIỆT GIA ĐÌNH
TRÔI NỔI ĐỜI HỌC SINH
5. RA TỈNH NAM ĐỊNH HỌC
(1935 – 1940)
Nhờ có suất học bổng trời cho, cậu Quynh đã được cha người Bỉ gửi ra nhà xứ Nam Định học. Thế là từ năm lên 9 tuổi, cậu đã từ biệt gia đình, từ biệt quê hương Trì Chính để sống trôi nổi đời học sinh.
Khoảng 5 năm học ở Nam Định, cậu Quynh đều được xếp vào loại học sinh giỏi của Tỉnh. Cha xứ Nam Định: cố Cao, tên Tây là Vacquier, rất tự hào về cậu. Đi đâu cha cũng khoe là có thằng cậu mới 13 – 14 tuổi nhưng học rất giỏi. Vì thế có nhiều phụ huynh mang con em vào nhà xứ xin cha nói với cậu kèm học thêm cho con em họ. Cố Cao còn nhờ cậu Quynh tập hát Thánh ca cho Ca đoàn Nam Định gồm cả Ta và Tây Đầm nữa.
Thời gian ở Nam Định, cậu Quynh có mấy mẩu chuyện lí thú, và cũng là mấy biến cố, mấy kỉ niệm sâu sắc không bao giờ quên.
***
Chuyện hai viên bi
Năm đầu tiên ở Nam Định, cậu Quynh mới có chín mười tuổi, đã xảy ra một chuyện như sau: Chiều hôm ấy, cố Cao nói với cậu: “Lát nữa có cha khách đến dâng lễ. Các con bảo nhau chuẩn bị giúp lễ cho chu đáo. Cha này hơi hách đấy! Lôi thôi là ăn bạt tai ngay”. Cậu Quynh “Vâng ạ” ngoan ngoãn rồi đi gọi một cậu nữa đến mở cửa buồng áo, chuẩn bị đồ lễ. Mọi khi các cậu thường sát giờ lễ mới đến. Lần này nghe cha xứ cảnh báo nên đến sớm hơn. Đồ lễ đã chuẩn bị xong cả. Nhìn đồng hồ, thời gian vẫn còn sớm. Các cậu không biết làm gì, liền chơi bi với nhau.
Cả hai cậu đều chơi bi rất diệu nghệ. Những phát bắn rê ngang, bắn sượt đầu rất chuẩn xác. Các cậu đang say sưa chơi, không ngờ cha khách đã đến. Cha lặng lẽ không nói một câu, chỉ cúi xuống thu hai viên bi bỏ túi, rồi vào mặc áo lễ. Hai cậu cũng vội mặc áo giúp, ra châm nến bàn thờ, bật đèn cung thánh. Thánh lễ bắt đầu như không có chuyện gì xảy ra.
Thế nhưng đến phần Phụng vụ Thánh Thể, khi cha chủ sự đưa chén thánh ra để đón nhận của lễ là rượu và nước từ tay các cậu giúp thì cậu Quynh không đưa rượu. Lại nằng nặc đòi “trả bi đã! trả bi đã!” Cha khách trừng mắt trấn áp. Cậu Quynh vẫn không chịu trao rượu lễ. Đến nước này sợ ê mặt với giáo dân đang dự lễ, cha chủ sự đành móc hai viên bi ra trả cho xong chuyện. Thánh lễ lại tiếp diễn như không có sự cố gì.
***
Câu chuyện trên đây tôi được nghe cha cố Antôn Hiệu kể đã hơn hai mươi năm rồi. Lúc ấy tôi hỏi cha: “Còn sau đó thì thế nào nữa ạ?” Cha Hiệu bảo tôi: “Chỉ có thế là hết. Mất bi rồi dùng mưu lấy lại được bi là xong chuyện. Còn anh thấy chưa hết thì anh cứ…thêm vào!”
Mấy chục năm rồi, tôi thấy mẩu chuyện này vẫn còn thiếu một hồi sau. Theo tôi, mới chỉ là mẩu chuyện ngồ ngộ, vui vui, cái sai, cái đúng chưa có sức thuyết phục rõ ràng. Đã đôi lần tôi trực tiếp hỏi cha già, nhưng đều không đúng lúc nên bị cha coi là lẩm cẩm, gạt đi. Tuy nhiên, nhiều giáo dân Tiên Lãng đã được nghe cha kể chuyện này, nhưng chuyện họ thuật lại còn lõm bõm hơn cả chuyện cha Hiệu kể. Mãi gần đây tôi mới được một cô giáo dạy văn, cũng là một giáo lý viên kể cho nghe tiếp đoạn sau:
Lễ xong. Vừa vào đến buồng áo, mặt cha khách đã tím lại, giọng hầm hầm: “Xếp dọn xong đồ lễ, biết điều lên ngay phòng khách cho tôi gặp. Táo tợn lếu láo đến thế là cùng. Nếu không lên thì đừng hòng ở đây nữa. Chỉ có về nhà mà xua gà”. Nói đoạn, cha khách ra khỏi buồng áo.
Cậu giúp lễ kia sợ tái mặt, oán trách cậu Quynh. Cậu Quynh bảo việc tớ làm tớ chịu hết, một mình tớ lên là đủ. Cậu đưa cho tớ quyển Phúc âm! Cậu kia ngơ ngác nói: “Phải tìm cái mo, hay tấm bìa cứng mà lót vào trong quần để đỡ đòn, chứ quyển sách bé thế này thì làm gì được!” Cậu Quynh không nói gì chỉ lật lật tìm một trang sách, nhẩm đọc, rồi trao lại sách cho cậu kia cất vào tủ. Ra khỏi buồng áo, cậu Quynh còn bình tĩnh nói với bạn: “Cứ yên trí, Lời Chúa sẽ cứu tớ không phải ăn đòn như cậu tưởng đâu!” Nghe nói vậy, cậu kia ngẩn người, không sao hiểu nổi.
Đến phòng khách, cậu Quynh cúi đầu chào cha. Cha xẵng giọng hỏi:
- Còn thằng nữa đâu?
- Dạ. Sự việc chỉ có mình con làm, bạn kia không can dự gì nên không có mặt ạ!
- Hai thằng cùng mắc tội chơi bi, sao lại nói không can dự gì?
- Thưa cha, chơi bi là có tội ạ?
- Thôi, không nói nhiều! Bây giờ mi đã biết tội của mi chưa? Dám coi Thánh lễ không bằng viên bi. Coi thường Thánh lễ là coi thường sự hiện diện của Chúa Giêsu Kitô. Mi có biết không?
- Thưa cha, con không coi thường Thánh lễ, nhưng Chúa Giêsu dạy có điều còn trọng hơn Thánh lễ ạ.
- Láo toét, không lí sự cùn nữa, mất thì giờ. Ta không hiểu sao mà cố Cao lại khen mi là rất giỏi giang thông minh. Giờ mi nói đi! Tội của mi đáng nhận hình phạt nào cho cân xứng. Một là nằm xuống chịu 20 roi để nhớ đời, hai là ta nói với cố Cao đuổi mi về Phát Diệm, không cho học ở Nam Định nữa.
- Thưa cha, xin cha cứ bình tĩnh ngồi xuống đã, đừng lăm lăm cầm cái roi như vậy. Con đã lên gặp cha thì con không bỏ chạy đâu. Nhưng quả thực, con chưa biết con có tội gì.
- Tội tày đình là thế mà vẫn còn cãi à?
- Thưa cha, con không cãi mà con nghĩ là con đã làm đúng Lời Chúa dạy.
- Chúa nào dạy thế! Được, ta bình tĩnh để nghe mi nói. Nếu mi dẫn ra được ở sách nào, đoạn nào, Chúa đã dạy mi là đòi được bi thì mới trao rượu cho ta dâng lễ, ta sẽ tha cho mi, bằng không, ta sẽ tăng mức phạt lên 30 roi về tội cố tình chống cãi. Mi có bằng lòng không?
- Vâng, cha con mình thỏa thuận như thế nhá! Giờ xin cha giở sách Phúc âm Matthêu phần đầu, ngay sau bài giảng trên núi một quãng…
- Đoạn mấy? Câu mấy? Nói mau! Không phải vòng vo dài dòng nữa.
- Vâng, con không dài dòng mà chỉ muốn hướng dẫn cha tra sách cho nhanh xem con nói có đúng không thôi. Matthêu đoạn 5 câu 23 đến 24 Chúa đã dạy: “Nếu khi anh em sắp dâng lễ vật trên bàn thờ mà còn có chuyện bất bình với ai, thì hãy để của lễ lại đó. Làm hòa xong rồi hãy dâng lễ vật”. Con người dâng của lễ trên bàn thờ, con đã làm đúng như thế, không sai một li.
Ông cha khách trợn mắt ngạc nhiên về sự thuộc Kinh Thánh và vận dụng rất thông minh của cậu Quynh. Ông đã xẹp cơn thịnh nộ. Tuy vậy, ông vẫn còn giữ thế thượng phong:
- Được ta giữ lời hứa, tha tội cho cậu. Nhưng cậu không phải vô tội đâu. Nghe ta nói đây: Tội thứ nhất chơi bi trong lúc ấy là sai. Cậu giúp lễ là người dâng lễ vật, đôi tay phải sạch sẽ tinh khiết. Bàn tay cứ xoè ra úp xuống đất là mất vệ sinh. Tội thứ hai, viên bi là chuyện nhỏ, làm sao lại bất bình đến mức phải dừng của lễ để đòi bi? Cậu vận dụng Lời Chúa mới đúng có một vế thôi. Cậu tưởng đòi được bi là hòa, là xong à? Chỉ xong với các cậu thôi, còn với ta thì lại bắt đầu bất bình, căm tức, chia trí suốt cả ván lễ!
- Thưa cha, con xin nhận lỗi với cha về tội thứ nhất. Còn tội thứ hai làm cha căm tức, chia trí thì quả con không ngờ đến. Con cứ nghĩ khi dâng lễ, cha đã nâng tâm hồn lên với Chúa, chấp gì đến đứa con nít đòi bi.
- Phải như con nói mới đúng, nhưng ta còn tự ái nóng nẩy, chưa đạt được đến tầm mức ấy. Thôi, giờ thì cha con mình làm hòa, cùng quyết tâm sửa chữa bản thân. Con có còn muốn nói với ta điều gì không?
- Con cám ơn cha. Hôm nay cha đã làm con lớn lên… Nếu cha cho phép, con cũng xin góp với cha một điều nữa ạ. À mà điều ấy cha cũng vừa tự nhận ra rồi!
- Được con cứ mạnh dạn nói rõ thêm đi!
- Concon nghe cha nổi tiếng nóng nảy. Chúa Giêsu là vị mục tử rất hiền lành và khiêm nhường. Chúa cũng cầm cái roi, cái gậy nhưng không phải để vụt chiên, mà chỉ để bảo vệ đàn chiên khỏi sói rừng mà thôi.
- Ta hiểu ý con rồi. Là linh mục hãy học mục tử Giêsu. Đúng không? Giờ thì ta cũng nói một lời giống con: Ta cám ơn con. Hôm nay con đã làm ta lớn lên.
Rồi hai cha con ôm nhau. Cha khẽ vỗ vào vai con và thì thầm: Hòa nhé! Phải lớn lên nhé!
Nghe xong Chuyện hai viên bi hồi sau vừa kể trên, tôi nói với cô giáo dạy văn:
Tôi cũng cám ơn cô vì cô đã kể cho tôi nghe một mẩu chuyện rất lí thú, cảm động và đã làm cho tôi…thấy mình lớn lên.
***

Phụ trách HƯỚNG ĐẠO SINH
Lúc ấy, phong trào HƯỚNG ĐẠO SINH mới du nhập vào Việt Nam chưa lâu, đang thu hút nhiều thanh thiếu niên. Cố Cao đã trao quyền cho cậu Quynh thành lập và phụ trách một đội tại địa bàn Nam Định. Cậu Quynh vốn có tính năng động, tháo vát nên rất thích hợp với việc phụ trách tổ chức đó.
Vì lí do chiến tranh và thời cuộc chính trị, HƯỚNG ĐẠO SINH Việt Nam đã bị đình chỉ hoạt động tại miền Bắc từ năm 1954, và rồi toàn quốc vào năm 1975. Cho nên, những thế hệ trẻ Việt Nam sinh từ năm 1970 trở về sau có thể ít biết về tổ chức này.
Xin kể sơ qua đôi nét lịch sử HƯỚNG ĐẠO SINH Việt Nam: Đoàn thể này đã được thành lập vào năm 1930. Hai người sáng lập là Trần Văn Khắc và Hoàng Đạo Thúy. Phong trào khởi đầu được hình thành tại Hà Nội, rồi mau chóng lan ra Hải Phòng, Nam Định, sau đó lan rộng khắp toàn quốc, từ Bắc chí Nam.
Đây vốn là một tổ chức Phong trào Hướng đạo thế giới (World Organization of the Scout Movement). Mục đích là giáo dục thanh thiếu niên những kĩ năng sống và ý thức công dân; bổ túc cho giáo dục gia đình và nhà trường, rèn luyện tác phong tháo vát, thích nghi với mọi hoàn cảnh, biết trọng danh dự và góp phần hữu ích cho xã hội, cho đất nước. HƯỚNG ĐẠO SINH Việt Nam được thành lập cũng theo những mục đích chung đó.
Buổi ban đầu chưa có tên là HƯỚNG ĐẠO SINH, cứ gọi theo tên Tây là Scout (Xì- cút), rồi tên Ta là Đồng Tử Quân. Đến năm 1933, Hoàng Đạo Thúy mới đổi tên gọi là HƯỚNG ĐẠO SINH và chọn đồng phục áo sơ mi ngắn tay mầu nâu, quần soóc (cộc) mầu xanh cùng mũ rộng vành có dây quai.
Tên gọi HƯỚNG ĐẠO không có nghĩa là dạy Đạo, không liên quan đến một tôn giáo nào. Hầu hết các đơn vị hướng đạo không phân biệt tôn giáo của đội viên. Vì thế, đội HƯỚNG ĐẠO SINH như một thanh nam châm đã thu hút rất đông những nhà trí thức tương lai như Tạ Quang Bửu, Trần Duy Hưng, Lưu Hữu Phước, Tôn Thất Tùng…Các ông này về sau đã trở thành những nhân vật tên tuổi trong chính trường, cũng như trong lĩnh vực văn hóa, khoa học của Việt Nam.
Cũng vì phụ trách HƯỚNG ĐẠO SINH, cậu Quynh đã biết những ông này. Năm 1955, Hà Nội vừa tiếp quản, Bác sĩ Trần Duy Hưng làm chủ tịch thành phố Thủ Đô, biết tin cha Quynh là linh mục đang ở Hà Nội, đã mời cha đến nhà riêng gặp mặt, anh em hàn huyên ôn lại thời HƯỚNG ĐẠO SINH hai mươi năm về trước.
6. CHA ĐỠ ĐẦU: CỐ CAO (VACQUIER)
Chúng tôi nghĩ: muốn đi tu thì phải có cha đỡ đầu. Cha đỡ đầu là linh mục bảo lãnh cho một người đi tu. Và người đi tu đó nhận mình là con của cha đã bảo lãnh mình, hay còn gọi là cha đỡ đầu mình. Trường hợp cậu Quynh thì lại không phải như vậy. Không biết từ đâu, người ta coi cố Cao là cha đỡ đầu của cậu. Chúng tôi đã có lần hỏi cha Quynh:
- Thưa cha, cha chọn cố Cao hay cố Cao chọn cha?
- Chẳng ai chọn ai cả. Khi tôi đi tu thì không có ai đỡ đầu. Còn gọi cố Cao là cha đỡ đầu tôi thì cũng được.
Câu chuyện là thế này, nghe đầy kịch tính và cảm động:
Năm năm ra Nam Định học, cậu Quynh thấy mình nhàn quá, học hành chẳng có gì vất vả. Cậu đã nhận dạy học thêm, kèm cặp một số học sinh lớp dưới cậu. Vì thế cậu đã kiếm được số tiền kha khá để trang bị cho nhu cầu học tập và sinh hoạt của mình. Cậu còn có tiền đi chơi đó đây, đi xem phim ở rạp nữa.
Một hôm cậu Quynh bỗng bị cố Cao gọi lên phòng và bất ngờ vả cho một cái nẩy đom đóm mắt. Cậu đứng ngớ người ra, chẳng hiểu sao cả. Cố Cao mắng:
- Cậu đã bôi tro trát trấu vào mặt tôi rồi! Vừa mới có mấy phụ huynh đến nói từ nay họ không cho con em họ vào học cậu nữa.
Cậu Quynh vẫn đứng như trời trồng, im lặng, chẳng hiểu sự thể làm sao. Cố Cao nói tiếp:
- Họ đã bắt gặp cậu đi xem cinê ở rạp. Họ cho rằng cậu đi tu mà như thế là quá bừa bãi, xấu xa. Họ không thể để một con người có tài mà không có đức như cậu dạy con em họ.
Giờ cậu Quynh mới vỡ lẽ, giọng buồn rầu, cậu phân trần:
- Thưa cha, con đã đi tu đâu. Phim con vừa xem là phim Valse dans l’ombre, một phim rất hay và lành mạnh. Bản nhạc trong phim đã trở thành bản nhạc quen thuộc của mọi dân tộc. Con nghĩ xem phim ấy thì chẳng có gì là lỗi, là xấu cả. Người ta hiểu nhầm con. Nhưng con cũng xin lỗi cha con đã làm phiền lòng cha.
- Có hai vợ chồng người Pháp có uy tín, họ cũng tố cáo cậu với tôi. Bây giờ thì tôi rất xấu hổ vì cậu. Cậu bảo cậu chưa đi tu. Không ai tin được, cả tôi cũng không tin. Cậu được cha Bỉ đỡ đầu nuôi ăn học, cậu ăn ở nhà chung, làm việc ở nhà chung. Thế mà lại bảo không phải đi tu? Lạ thật! Thôi, số tiền cha đỡ đầu của cậu gửi tôi nuôi cậu ăn học hãy còn chỗ này đây. Tôi trả cho cậu. Cậu liệu thu xếp mà ra đi. Cậu không thể ở nhà xứ Nam Định với tôi được nữa rồi.
Cậu Quynh choáng váng vì biến cố quá bất ngờ. Tuy vậy cậu vẫn bình tĩnh có ý kiến:
- Thưa cha, cha đã đánh đuổi con thì con phải đi thôi. Nhưng còn số tiền cha trao cho con thì con không dám nhận đâu. Vì đó không phải là tiền của con.
Cố Cao ngẫm nghĩ giây lát rồi nói:
- Phải, cậu không cầm tiền cũng là đúng lẽ. Thôi cậu hãy về phòng nghỉ ngơi và thu xếp hành lí. Đợi tôi liên lạc với cha Bỉ rồi đầu giờ chiều, cậu sẽ lên gặp tôi nhận quyết định.
Cậu Quynh về phòng, hành lí lúc nào cũng gọn ghẽ trong một vali, chẳng có chi phải thu dọn. Cậu ngả mình xuống giường thư giãn để lấy lại tinh thần. Cậu nhắm mắt, thì thầm với Chúa: “Chúa ơi! Con phó thác mọi sự đời con trong tay Chúa. Con chỉ xin Chúa gìn giữ con, đừng để con làm điều gì sai lỗi.”
Đến đầu giờ chiều, cậu Quynh lên gặp cố Cao. Cậu thấy nét mặt cố đượm sự trầm tư, không còn vẻ giận dữ ban sáng nữa. Cố ôn tồn hỏi cậu:
- Ban sáng cha đánh con, bây giờ còn thấy đau không?
- Thưa cha, không ạ.
- Thế mà cha vẫn còn thấy đau đấy… Bởi vì cha đã đánh oan con…Đúng là con chưa hề có ý đi tu…Cha Bỉ gửi con ra đây ăn học chỉ vì yêu thương con chứ không định hướng hay áp đặt con đi tu. Cha Bỉ đã đỡ đầu con bằng việc làm chứ không bằng chức danh, không kèm theo điều kiện nào. Còn cha lầm, mấy năm nay cứ ngỡ con là tu sinh, giao cho con việc gì Nhà Chúa con cũng nhận cả, và hoàn thành rất tốt. Giờ thì con nghe cha quyết định đây: Cha không đuổi con, nhưng gửi con vào Huế học lên cao hơn. Cha tiếp nối cha Bỉ bảo trợ con ăn học nội trú tại trường Providence. Khi nào con đỗ tú tài xong thì lại về đây với cha. Con bằng lòng chứ?
Đương nhiên là cậu Quynh rất mừng rỡ nhận lời. Ôi, chỉ trong một ngày mà họa – phúc đến với cậu đều bất ngờ và quá nhanh. Cậu như cánh chim non đang nhởn nhơ bay lượn giữa bầu trời quang đãng thì thình lình bị cơn dông ập tới quật rớt tả tơi thảm hại. Thế rồi từ sự thảm hại ấy lại là khởi đầu cho một chuyến bay cao hơn, xa hơn đến khoảng trời mới đầy hứa hẹn.
***
Câu chuyện trên, chúng tôi đã có dịp kiểm chứng vào năm 1989, sau khi cha Quynh vừa có chuyến đi Tây về. Cha kể thêm:
- Phải nói rằng ở cái tuổi tôi lúc ấy thì chẳng có ai đi xem chiếu bóng. Không phải họ coi chiếu bóng là xấu mà vì có đi xem cũng chẳng hiểu được. Hầu hết phim đều nói tiếng Pháp. Mà làm gì có thuyết minh và lồng tiếng Việt như bây giờ.
- Thưa cha, việc xảy ra như vậy có làm ông cha Bỉ phiền lòng không ạ?
- Không. Trái lại ông còn nói tốt về tôi với cố Cao, ông rất thông cảm với tôi, hoàn toàn để tôi lựa chọn hướng vào đời. Ông cha Bỉ hiện vẫn còn sống, 92 tuổi rồi. Ông rất yêu Việt Nam. Biết tôi sang Pháp, vẫn cố đến gặp tôi. Ông ấy hỏi: “Hồi này ở Việt Nam có còn phân phối thịt mắm theo tem phiếu nữa không?” Tôi cười đáp: “Thôi rồi”. Ông ấy mừng thốt lên: “Thế thì đỡ khổ.”
Ngài là một người cha rất đôn hậu và thánh thiện. Còn cố Cao, Một người cha đỡ đầu tiếp nối cha Bỉ cũng để lại dấu ấn sâu sắc trong đời tôi. Nghe nói, Cố đã qua đời năm 1943, khi tôi còn đang học tại Huế.
- Và thưa cha, vì thế bản nhạc “Valse dans l’ombre” đã làm cha yêu thích đặc biệt. Cha đã biến nó thành bài “Giữ tình duy nhất” mà giáo dân Hà Nội, Hải Phòng một thời ai cũng thuộc.
(Ghi chép năm 1989)
7. VÀO HUẾ HỌC TRƯỜNG PROVIDENCE
(1940-1943)
Mùa Thu năm 1940, Nhật đổ bộ vào Đông Dương. Việc giao thông đi lại trở nên rất khó khăn. Tuy rằng vẫn còn là thời Pháp thuộc, song Pháp tự biết mình yếu thế hơn Nhật nên đã nhượng bộ Nhật đủ điều. Các trạm đường giao thông và thuế quan đều do Nhật nắm giữ, kiểm soát.
Cậu Quynh phải chật vật lắm mới vào được đến Huế. Cậu đã đến trường Providence, xuất trình giấy giới thiệu của cha Vacquier. Cậu nhanh chóng được đón nhận vào học và ăn ở nội trú trong nhà trường.
Hồi ấy, về phía Công giáo chỉ có ba trường trung học lớn danh tiếng là ở Hà Nội, Huế và Sài Gòn. Các học sinh trong trường Providence phần nhiều là con nhà giàu, con em các quan chức: Ta có, Tây có, Giáo có, Lương có. Trang bị cơ sở học tương đối hiện đại, sinh hoạt ăn ở khá sang. Chắc là học phí cũng khá tốn kém. Nhưng cậu Quynh thì khỏi lo, cứ an tâm mà học. Đặc biệt, nhà trường có một phòng sách lớn, nhiều đầu sách quý hiếm, ở ngoài không có. Các học sinh trong trường, phần nhiều học đã thấy căng, có lên phòng sách cũng chỉ là tìm đọc loại sách có nội dung nhẹ nhàng thư giãn, hoặc loại sách tham khảo hỗ trợ cho chương trình đang học mà thôi. Cậu Quynh thì lại khác, học hành thấy nhàn hạ, phòng sách mới là kho kiến thức quý mà cậu say mê khám phá. Những đầu sách cậu tìm đọc thường là của các tác giả thần học đương đại, loại sách nằm đã lâu trong tủ, chẳng mấy ai rờ mó đến, vì nó khô khan và khó hiểu. Ấy vậy mà cậu Quynh đọc lại thấy hấp dẫn, càng đọc càng thấy tỉnh táo như uống cà phê vậy. Qua sách, cậu đã lờ mờ nhận ra bộ mặt Giáo Hội Phương Tây và cả Giáo Hội Việt Nam nữa: những cái được, và chưa được, những cái trì trệ, lỗi thời cần sớm canh tân.
Thấm thoát đã hết ba năm học. Mùa Hè năm 1943, cậu Quynh học xong và đi thi. Cậu có bằng Tú tài loại ưu tại Huế. Cha quản lí trường đã gọi cậu lên và trao cho số tiền 120.000đ, nói là tiền còn dư lại sau ba năm ăn học tại trường (thế mới biết là số tiền cố Cao chi cho cậu ăn học quá lớn). Lần này thì cậu Quynh nhận ngay chứ không từ chối như khoản tiền của cha Bỉ mà cố Cao đưa cậu ba năm về trước.
***
Gian nan đường về
Lúc đi đã chật vật, ngày về còn gian nan gấp bội. Đường sắt, Nhật đã hoàn toàn chiếm dụng làm phương tiện vận tải quân sự. Trên đường quốc lộ từ Huế về Bắc vắng tanh, cả ngày mới gặp dăm ba chiếc ôtô chạy qua, song đều không phải là xe khách. Có vẫy xin đi thì họ càng phóng nhanh hơn như thể gặp cướp. Thôi, cậu Quynh đành quyết định đi bộ 600 km từ Huế về Nam Định vậy. Số tiền 120.000đ khá lớn. Để đề phòng bất trắc, cậu phải san mỏng yểm vào trong giầy và bít tất.
Ngày đầu tiên đi được đến Đông Hà thì trời nhá nhem tối. Cậu Quynh vào một quán ăn, xem dáng bà chủ quán có vẻ là người tốt. Ăn xong, cậu thuê phòng nghỉ đêm. Có lẽ mấy năm ở HƯỚNG ĐẠO SINH đã rèn luyện cậu tác phong lanh lợi tháo vát, thích nghi với mọi hoàn cảnh sống. Dù mệt, cậu vẫn chưa ngủ ngay mà còn nằm nghe ngóng quan sát. Cậu thấy có vài tên xem ý gian, như đang muốn theo dõi cậu. Thế là tình hình không ổn rồi! Cậu khẽ nhỏm dậy, đi giầy bít tất cẩn thận, rồi lẻn cửa sau ra vườn. Qua một hàng giậu thưa, bên ngoài là bờ biển cát. Cậu đi ngược trở lại phía Huế. Cậu đoán quả không sai, mấy tên gian phi đã xô ra cổng sau tìm cậu. Nguy quá! Bãi cát không có chỗ ẩn nấp, cậu đành ôm hành lí ngồi thu lu bất động như thể tảng đá. Chúng lia đèn pin về hướng Bắc, nói với nhau: “Không thấy đâu cả…Nó vừa đi thôi…Đuổi mau là bắt được…” Cậu Quynh thở phào vì vừa trải qua khoảnh khắc nín thở. Cậu lại lên đường vào thị trấn Đông Hà. Phần nhiều nhà đã cửa đóng then cài. Có một nhà bên trong đang có tiếng đọc kinh. Cậu Quynh gọi cửa. Họ hỏi vọng ra: “Anh là ai?” Cậu nói: “Là con cha xứ Nam Định”. Họ đòi xem giấy. Cậu Quynh lấy giấy buộc vào hòn sỏi ném vào. Xem xong, họ mở cổng cho cậu nghỉ một đêm bình an.
Sáng hôm sau, cậu Quynh lại lên đường tiếp tục cuộc đi. Lúc thì gặp trạm lính Nhật kiểm soát, lúc thì gặp máy bay Mĩ oanh tạc ném bom. Cuộc đi đầy phiêu lưu mạo hiểm và gian nan. Cậu rút kinh nghiệm không nghỉ đêm ở quán trọ nữa, mà tìm vào nghỉ nhờ nhà xứ họ đạo ven đường hoặc nhà giáo dân.
Cứ như thế, cậu Quynh đi bộ ròng rã 9 ngày thì về đến Nam Định. Lúc này cậu mới biết tin cố Cao không còn nữa. Lòng cậu trào dâng bao buồn đau và nỗi nhớ tiếc!
***
Lại nói thêm về cố Cao: Cố Cao là người Pháp hơi nóng tính nhưng sống thánh thiện, không quan tâm đến chính trị, xã hội. Năm 1945, quân Nhật lăm le hất cẳng Pháp ở Đông Dương. Pháp vội phải gọi thêm quân trù bị người Pháp để bổ sung lực lượng. Các cố Tây dạy học ở trường chủng viện Xuân Bích đều phải nhập ngũ. Cố Cao cũng phải nhập ngũ với lon thiếu úy. Đó là bi kịch để đời Cố kết thúc ngắn ngủi và thảm thương. Cố đã bị Việt Minh thủ tiêu mất xác khi về nhà xứ Nam Định năm 1943 (Hồi kí Đức cha Lê Đắc Trọng tập I, trang 91 và tập II trang 41).
8. ƠN GỌI ĐI TU (1944)
Chàng thanh niên 18 tuổi Phạm Hân Quynh sau khi thi xong tú tài toàn phần tại Huế thì cha đỡ đầu đã qua đời. Từ đây chàng bắt đầu sống cuộc đời hoàn toàn tự lập. Chàng đã về Hà Nội và quyết định đi tu trọn đời.
Con đường đi tu của chàng không do cha mẹ định hướng, sắp xếp, cũng không bởi tác động của bạn bè hay một cá nhân nào. Ngay cả hai cố Tây đỡ đầu cho chàng ăn học suốt 8 năm cũng không hề có kèm điều kiện nào. Giờ đây tự chàng quyết định hoàn toàn. Đấy là nói theo kiểu thế gian. Còn theo đức Tin thì đó là Ơn gọi,là sự Chúa chọn.
Chúa đã chọn chàng, đã rấm chàng từ khi còn thơ bé. Thử hỏi: Tại sao chàng lại thích đi lễ trong dòng kín Carmel? Tại sao chàng lại thành cậu giúp lễ? Tại sao ông cha Bỉ lại yêu chàng và cho chàng suất học bổng đặc biệt? Rồi từ cái vả nẩy đom đóm mắt của cố Cao, cố lại thành người cha đỡ đầu cho chàng 3 năm ăn học đầy tốn kém? Đối với chàng thì tất cả đều là ngẫu nhiên. Song đối với Thiên Chúa thì dù một sợi tóc trên đầu rơi xuống cũng không hề ngẫu nhiên đâu!
Sau này chắc nhiều người đã hỏi cha “Tại sao cha đi tu?”. Khi cha về làm linh mục Hải Phòng, chúng tôi cũng hỏi cha câu ấy. Và cha đã trả lời:
- Tôi thấy tình hình Giáo Hội còn rất lạc hậu và non nớt, lại đang đứng trước khúc quanh của lịch sử nên dễ bị phân hóa, lạc hướng và rơi vào viễn cảnh mờ mịt! Nói chung là rất nguy nan. Tôi muốn ghé vai chống đỡ…
- Xin cha nói rõ, cụ thể thêm chữ “nguy nan” là thế nào ạ?
- Nguy nan vì cách sống Đạo và giảng Đạo nhiều điểm đã lỗi thời, sai lệch rồi! Còn nguy nan về thời thế, về hoàn cảnh sống mới bất lợi nữa.
Đúng là Chúa đã chọn cha như khí cụ tình yêu của Ngài. Và Chúa đã sử dụng cha đúng lúc, đúng chỗ.
9. NHẬP CHỦNG VIỆN HÀ NỘI (1944)
Chủng viện là “vườn ươm trồng” riêng của Giáo Hội để nhằm đào tạo giáo sĩ tương lai. Việc tuyển chọn ứng sinh vào học chủng viện ở mỗi thời và mỗi nơi có những thể lệ khác nhau. Vào thời điểm năm 1944 ở Hà Nội, thể lệ vào chủng viện tương đối thoáng. Chàng thanh niên Phạm Hân Quynh đã được nhận nhập chủng viện một cách dễ dàng. Và từ đây, chàng được mọi người gọi là tu sĩ, là thày.
Lúc này là cuối thời Thế chiến 2, lịch sử thế giới cũng như Việt Nam đang có những biến động ác liệt. Hàng ngày ở Hà Nội, cứ nghe thấy tiếng còi báo động là mọi người lại vội vã chui xuống hầm trú ẩn để tránh máy bay Mỹ ném bom Nhật. Vì lẽ đó, chủng viện Hà Nội tạm thời chưa khai giảng được.
Đầu năm 1945, Nhật đảo chính Pháp. Chỉ qua một đêm, Nhật đã lật đổ ách thống trị Pháp tại Việt Nam. Thế là Việt Nam chấm dứt 80 năm thời Pháp thuộc, chuyển sang thời Nhật thuộc.
Giữa năm 1945, bên trời Âu, Phát xít Đức đầu hàng vì bị quân đồng minh tiêu diệt đến tận hang ổ Berlin. Còn vùng Á đông, ngày 14/8/1945, Nhật hoàng cũng xin đầu hàng vô điều kiện sau khi phải hứng chịu hai quả bom nguyên tử khủng khiếp tại Hirôshima và Nagazaki. Đây là thời cơ các nước Đông Nam Á lần lượt tuyên bố giành độc lập mà không mất một mũi tên viên đạn nào. Việt Nam cũng nằm trong bối cảnh lịch sử chung đó.
Thày Quynh có mặt ở Hà Nội trong những ngày biến động lịch sử cực kì to lớn này. Thày đã chứng kiến trang sử mới của Dân tộc và cả của Giáo Hội Việt Nam. Chỉ 5 ngày sau khi Nhật đầu hàng, ngày 19/8 Việt Nam khởi nghĩa và Cách mạng đã thành công. Toàn dân Việt ngỡ ngàng, choáng ngợp trong bầu khí đất nước độc lập. Mọi thành phần Giáo Hội đều tỏ lòng yêu nước, nhiệt tình ủng hộ nền độc lập non trẻ. Đương nhiên, chủng viện Hà Nội lúc này vẫn chưa thể trở lại hoạt động bình thường trước một chế độ mới.
10. HỒ CHỦ TỊCH ĐẾN NHÀ CHUNG
HÀ NỘI VÀ NGÀY 2 THÁNG 9 NĂM 1945
Chỉ mươi ngày sau Cách Mạng Tháng Tám, Hồ Chủ tịch đã đến thăm Nhà chung Hà Nội. Lúc ấy thày Quynh và một số tu sĩ trẻ khác đang tất bật trang trí nhà thờ và trường Dũng Lạc. Đoàn xe ôtô của cụ Hồ đỗ ngay bên bậc thềm Nhà thờ Lớn, gần tượng đài Đức Mẹ. Rồi cụ Hồ cùng đoàn tuỳ tùng đi bộ phía bên trái nhà thờ tiến vào cổng Nhà chung.
Các tu sĩ trẻ đã nhận ra ngay cụ Hồ, mặc dù chưa được gặp cụ lần nào. Các thày mừng rỡ vây quanh cụ, hớn hở chào:
- Chúng cháu chào bác ạ!
Cụ Hồ nét mặt tươi vui niềm nở:
- Bác cũng chào các cháu! Các cháu đang làm chi mà giăng đèn hoa đẹp vậy?
Mấy thày ngập ngừng, chưa biết trả lời sao cho tế nhị. Một cán bộ trong đoàn cụ Hồ nhanh nhảu nói:
- Thưa bác, chắc là các tu sĩ đây đang trang trí đèn hoa chào mừng ngày Cách Mạng Tháng Tám thành công đấy ạ!
Mấy người dân ở mặt phố gần đấy tinh mắt, nhận ra cụ Hồ, cũng tuốn đến, đứng vây xung quanh vị lãnh tụ một cách trật tự.
Cụ Hồ mỉm cười hỏi lại các tu sĩ:
- Chú cán bộ đoán thế có đúng không, các cháu?
Mấy tu sĩ trẻ nhìn nhau ấp úng, càng thấy khó nói. Giả như chỉ cần gật đầu “vâng ạ” là xong, và còn làm đẹp lòng nhau, nhưng đó không phải là sự thật. Thày Quynh đành lựa lời đáp:
- Thưa bác, ngày chào mừng Cách Mạng Tháng Tám đã qua rồi ạ. Đây là chúng cháu trang trí mừng một ngày lễ sắp đến: Ngày Chúa nhật 2 tháng 9 là lễ kính Các Chân Phúc Tử Đạo Việt Nam – Ngày giỗ tổ của Giáo Hội Việt Nam chúng cháu.
Cụ Hồ nhíu mày suy nghĩ rất nhanh. Rồi gật gù nói:
- Tốt! Tốt! Bác sẽ làm cho ngày 2 tháng 9 này trở thành ngày Đại lễ của cả dân tộc Việt Nam. Thôi bác cháu ta cùng nhau vào Nhà chung thăm các vị giáo phẩm.
Mấy tu sĩ đã đón dẫn đoàn khách cao cấp vào phòng khách Tòa Giám mục. Tại đây, chủ khách tiếp đón nhau rất trang trọng và thân tình. Phía chủ: toàn các cha, các thày người Việt Nam. Đức cha Thịnh (Chaize), Cha Chính Huy (Vuillard) tránh mặt không ra tiếp khách là rất khôn ngoan tế nhị, để tránh một mặc cảm do lịch sử để lại.
Cụ Hồ chủ động nói lên niềm phấn khởi to lớn vì nước nhà đã thoát khỏi ách nô lệ của thực dân Pháp. Cụ kêu gọi mọi thành phần trong Giáo Hội hãy tin tưởng, hợp tác với Chính phủ cách mạng, đoàn kết toàn dân thành một khối vững mạnh. Như cụ Giám mục Lê Hữu Từ (chưa tấn phong), Cố vấn của tôi, ông Nguyễn Mạnh Hà, người giáo dân yêu nước, cụ Ngô Tử Hạ, vị nhân sĩ Công giáo, ở ngay phố Nhà Chung đây…Tất cả đều đi theo cách mạng…
Cụ Hồ còn đang say sưa nói, chợt có một người cán bộ của cụ bước đến bên cụ ghé tai nói nhỏ, nhưng mọi người ngồi đấy vẫn nghe được: “Thưa bác, có người nhà từ trong quê ra, muốn gặp bác”. Cụ Hồ nói với người cán bộ: “Ai là người nhà của tôi? Ai là anh em tôi?” Cụ đưa mắt nhìn mấy vị giáo phẩm, mấy người ngồi đấy rồi thân mật dang tay nói: “Đây là người nhà tôi, đây là anh em tôi. Ai nghe lời tôi nói, ai thực hiện mọi chủ trương đường lối của Chính phủ cách mạng thì đều là người nhà tôi cả.”
Đến đây, buổi thăm viếng kết thúc. Chủ khách chia tay nhau trong nét mặt hân hoan thân tình.
Sau này cha con chúng tôi có dịp nhắc đến câu chuyện trên. Chúng tôi xin cha một lời bình, cha từ chối, chỉ giải thích: Theo lịch phụng vụ thời ấy, ngày lễ kính Các Chân Phúc Tử Đạo Việt Nam là ngày Chúa nhật đầu Tháng Chín. Mà năm 1945 ngày lễ này rơi vào ngày mồng 2 tháng 9. Còn các năm khác ngày lễ có thể xê dịch sang ngày mồng 5, mồng 6, mồng 7… Vì thế, ngày Quốc Khánh không thể che lấp được.
Chúng tôi bình luận với cha về câu Kinh Thánh (Mt 12,47-50) mà cụ Hồ đã vận dụng khi đó, có lẽ là một kịch bản được dàn dựng sẵn. Cha Quynh chỉ cười. Một anh bạn trẻ khen:
- Cụ thuộc KINH THÁNH và vận dụng khéo đấy chứ!
Nhân nói về sự tích ngày 2 tháng 9, còn một chi tiết mới nữa: Theo Đức cha Trọng kể thì lễ tuyên bố độc lập tại vườn hoa Ba Đình là vào buổi chiều. Buổi sáng hôm ấy là lễ kính Các Chân Phúc Tử Đạo Việt Nam hồi 8 giờ tại Nhà thờ Lớn Hà Nội. Phái đoàn Chính phủ cách mạng đã đến dự lễ. Ông Võ Nguyên Giáp được mời lên cung thánh ngồi vào chiếc ghế tựa lớn bọc nhung mà quan Toàn Quyền hay vị thượng khách nào đó mới được ngồi. Khi bước lên cung thánh, ông Giáp tỏ ra rất thành thạo nghi thức Công giáo: đã cúi mình bái sâu trước bàn thờ, rồi quay sang phía ghế Tòa Giám mục chào Đức cha Thịnh, sau cùng chào hai hàng ghế các cha ngồi dự lễ trên cung thánh (hồi ấy chưa có lễ đồng tế).
Để đáp lại Thánh lễ ban sáng ngày 2/9 tốt đẹp quy tụ Đạo đời, Đức cha Thịnh cho phép các thày chủng viện ban chiều mặc áo chùng thâm đi dự lễ Độc lập tại vườn hoa Ba Đình. Đoàn có 130 thày, được ưu tiên đứng dưới chân lễ đài (Hồi kí của Đức cha Lê Đắc Trọng tập II, trang 20).

11. LÀM GIA SƯ NHÀ ÔNG MAI VĂN HÀM
VÀ GIAO LƯU VỚI NHÓM CÁCH MẠNG
Hồi ấy, trong số người Công giáo Việt Nam ở Hà Nội có hai vị nổi tiếng học giỏi và có tinh thần yêu nước là ông Nguyễn Mạnh Hà và ông Mai Văn Hàm. Ông Hà coi thầy Quynh là bạn thân, dầu hơn tuổi thầy, còn ông Hàm coi thầy Quynh người nhà. Ông Hàm có hai cô con gái và hai cậu con trai đều nhờ thầy Quynh làm gia sư kèm cặp. Hai cô con gái học một lớp còn hai cậu con trai học một lớp. Mặc dầu thầy trò tuổi không chênh lệch nhau là mấy, song các cô cậu là con nhà gia giáo nên ứng xử với thầy Quynh rất thân tình nhưng không quá trớn. Đặc biệt, hai cô gái luôn khép nép đoan trang, nói năng cẩn trọng.
Thầy nhiệt tình dạy, trò hào hứng học nên hiệu quả học tiến rất nhanh. Ông Hàm thấy các con học như vậy thì mãn nguyện lắm. Thầy Quynh làm gia sư mà không lấy học phí nên ông Hàm muốn mua thứ nọ thứ kia tặng thầy, nhưng thầy đều từ chối.
Thời bấy giờ, nhà ông Mai Văn Hàm đã trở thành nơi hội tụ của những người Công giáo trí thức và một số lãnh tụ cách mạng. Thầy Quynh ngày nào cũng được mời ăn cơm ở đây. Bữa cơm nào cũng đông vui và sang như ăn cỗ. Trong bữa ăn thường có ông Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Văn Đệ, Nguyễn Tấn Zi Trọng, Nguyễn Mạnh Hà… Thỉnh thoảng cũng có mặt hai vị cố vấn là Giám mục Lê Hữu Từ và cựu Hoàng đế Bảo Đại.
Từ ngôi nhà này và từ trong những bữa ăn, các thực khách thường say sưa bàn việc nước. Tuần lễ Vàng mấy ngày sau Cách mạng Tháng 8 cũng từ đây nghĩ ra; cha Phạm Bá Trực cũng từ đây được chọn đề cử vào Quốc hội; Trần Văn Lai cũng từ đây đề xướng việc đi giật đổ các tượng đài Tây ở vườn hoa. Rồi bàn thành lập ngân hàng, bàn soạn thảo các văn bản cho Chính phủ Lâm thời…
Chúng tôi được nghe cha Quynh kể chuyện này từ năm cha mới về Hải Phòng. Lúc đó tôi hỏi cha:
- Ngoài ăn và nghe, cha có làm được việc gì trong cái nhóm “cao cấp” ấy không ạ ?
- Có chứ! Ở đây có hai tờ báo là DÂN QUỐC và KIẾN QUỐC, Tam Lang cũng ở đây viết báo. Tôi được giao duyệt lại các bài viết của Tam Lang. Vì văn Tam Lang hơi mạnh, tôi phải sửa lại cho ôn hòa hơn. Thế rồi một số văn bản soạn ra cho chính phủ, “các tướng” nhà ta toàn soạn bằng Pháp văn, rồi nhờ tôi chuyển dịch sang Việt văn. Quả là ngữ pháp tiếng Tây dễ viết đúng hơn ngữ pháp tiếng Ta.
Cha Quynh quen biết các nhân vật lịch sử là vì thế. Khi cha bị quản chế ở Tiên Lãng, một số các vị ấy có lần lượt về thăm cha để giữ trọn tình cũ nghĩa xưa. Dân Tiên Lãng thi thoảng thấy có đoàn xe con bóng loáng về Xuân Hòa gặp cha Quynh, lại có cả xe cảnh sát hộ tống, họ thì thầm bảo nhau: “Không biết ông Quynh phản động đến cỡ nào mà phải Trung ương về thẩm vấn, lấy cung.” Sau này, họ cũng hiểu ra ông cha Quynh không hề phản động mà suốt đời chỉ bơi ngược dòng nên mang họa vào thân.
12. LONG ĐONG HỌC CHỦNG VIỆN
(1945-1947)
Chủng viện Liễu Giai
Mùa Thu năm 1945, chủng viện Liễu Giai mở cửa khai giảng (chủng viện của hội dòng Saint Sulpice nên còn gọi là chủng viện St. Sulpice hay Xuân Bích, nằm trên đường Liễu Giai – Hà Nội). Thày Quynh đã vào học chủng viện này. Nhưng chủng viện mới khai giảng được vài ba tháng thì đã xảy ra trục trặc: Chính quyền Cách mạng nói là có nhu cầu muốn sử dụng khu nhà trường Liễu Giai, đề nghị Tòa Giám mục Hà Nội mau chóng bàn giao. Nhà nước sẽ thuê với giá 1 đồng Đông Dương một năm (!?). Thực chất là tịch thu và giải tán chủng viện.
Vì thế, chủng viện phải tạm thời giải thể, các cha giáo và chủng sinh đành ngậm ngùi chia tay nhau. Thày Quynh mượn cha Giám đốc toàn bộ giáo trình học để về nhà tự học.
Đan viện Châu Sơn
Rời chủng viện Liễu Giai, thày Quynh không về nhà mà giạt vào Đan viện Châu Sơn thuộc huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình. Thày đã ở đó 10 tháng tự học hành, nghiên cứu và giúp cha Bề trên Gioan Nguyễn Văn Thảo dạy học các tu sinh nhà dòng. Thày cũng có dịp tiếp cận tìm hiểu tinh thần và linh đạo dòng: Một dòng tu chiêm niệm, bắt nguồn từ truyền thống đan tu kì cựu trong Giáo Hội do thánh phụ Bênêdictô sáng lập. Tu luật dòng là sống hãm mình ép xác, CẦU NGUYỆN VÀ LAO ĐỘNG (ora et labora). Bởi thế, thày Quynh nhận thấy căn tính của dòng là rất cao, dù vậy không phù hợp với tính cách con người và ý nguyện của thày.
Thày Quynh và Đức cha Lê Hữu Từ
Đan viện Châu Sơn thuộc Giáo phận Phát Diệm. Đức cha Anselmo Lê Hữu Từ làm Giám mục Phát Diệm, nguyên là Bề trên tiên khởi Đan viện Châu Sơn. Ngài biết tin thày Quynh đang tạm trú tại dòng Châu Sơn, ngỏ ý muốn gọi thày về Phát Diệm thu nạp làm đệ tử để viết lách cho ngài. Đức cha Từ biết khá rõ về thày Quynh vốn là người Phát Diệm và đã một vài lần chạm trán trong nhà ông Mai Văn Hàm. Sợ thày trẻ người non dạ, có những bước đi lệch lạc sai lầm nên ngài muốn kèm cặp giám sát thày.
Còn thày Quynh cũng biết khá rõ về Đức cha Từ: Khi còn là linh mục Bề trên dòng Châu Sơn, cụ Từ và cụ Hồ đã có mối quan hệ đi lại với nhau. Tháng 10 năm 1945, cụ Từ được Tòa thánh tấn phong làm Giám mục Giáo phận Phát Diệm, cụ Hồ đã cử một phái đoàn cao cấp về dự lễ gồm có ông Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Vĩnh Thụy (tức vua Bảo Đại), Nguyễn Mạnh Hà, Trần Huy Liệu…
Hồi ấy ở vùng Kim Sơn – Phát Diệm còn hay xảy ra cướp bóc hoành hành. Có lần cụ Từ về Hà Nội họp, ở nhà quân cướp kéo đến cướp phá gây thiệt hại nặng nề cho Tòa Giám mục. Cụ Hồ biết tin, muốn phái một đơn vị vũ trang về đóng tại nhà thờ Phát Diệm để bảo vệ an ninh cho khu vực này. Cụ Lê Hữu Từ cám ơn cụ Hồ và không dám nhận sự quan tâm ấy với lí do quá tốn kém; để nhà nước Cách mạng phải đài thọ thì không công bằng, mà nhà thờ Phát Diệm phải chi trả thì không có khả năng tài chính. Cụ Từ chỉ khiêm tốn xin thành lập một nhóm tự vệ dân Công giáo có chút vũ trang loại nhẹ là đủ. Cụ Hồ đồng ý. Thế là nhân dịp phái đoàn Chính phủ về dự lễ tấn phong Giám mục, ông Phạm Văn Đồng đã kí lệnh cho cụ Từ thành lập một lực lượng vũ trang có tên là: Đội “Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc” và liên lạc hàng ngang với “Mặt trận Việt Minh”.
Dần dà Đức cha Lê Hữu Từ mới hiểu ra Cụ Hồ và Việt Minh chính lõi là cộng sản vô thần. Một Giám mục Công Giáo mà làm cố vấn cho hệ phái vô thần thì cực kì phi lí. Nhất là sau khi cụ Hồ kí hiệp định cho quân đội Pháp trở lại Việt Nam. Biết trước sau sẽ xảy ra chiến tranh, nhà nước đề ra chính sách tiêu thổ kháng chiến: đình, chùa, nhà thờ… phải đập phá đi, thì cụ Từ đã rút khỏi, không hợp tác với cụ Hồ.
Cụ Từ biết rõ: Tháp chuông bằng đá, một kì công kiến trúc của nhà thờ Phát Diệm cũng nằm trong mục tiêu phải đập phá. Mình không tự tay đập thì Việt Minh sẽ đến đập. Do đó, lực lượng tự vệ ban đầu để nhằm chống cướp thì nay là lực lượng bảo vệ không cho Việt Minh đến phá nhà thờ.
Thày Quynh hiểu do hoàn cảnh đưa đẩy, Đức cha Từ đang bị cơn lốc chính trị cuốn sâu vào việc thế trần, thày không muốn hợp tác với Đức cha Từ. Nhưng thày biết Đức cha Từ đang giám sát và có mạng lưới vô hình canh giữ thày, không cho thày rời khỏi Phát Diệm.
Cuộc trốn khỏi dòng Châu Sơn
Một buổi chiều, thày Quynh làm vẻ tản bộ ra dạo chơi bến sông. Thấy không có người theo dõi, thày tìm một thuyền Công giáo để làm quen, chủ thuyền là người Trà Cổ. Biết thuyền đó đêm nay đi Hải Phòng, thày đã trình bày hết sự tình với chủ thuyền và xin đi nhờ. Chủ thuyền hơi e ngại nên hẹn thày: Đêm nay thày đi bộ đến Kim Đài, 4 giờ sáng thuyền sẽ đón thày ở đấy để đi Hải Phòng. Thuyền sẽ treo đèn xanh và thày lia đèn pin xuống sông làm tín hiệu để gặp nhau.
Cuộc trốn chạy khỏi dòng Châu Sơn của thày Quynh cũng na ná như các cuộc vượt biên của thuyền nhân Việt ở thập niên 80 sau này. Thuyền đã đến bến Hải Phòng bình an. Thày tìm vào nhà thờ Chính tòa xin gặp Đức cha Lễ nhưng ngài không tiếp, chỉ cho thày Quynh ăn một bữa và ngủ một đêm, sớm hôm sau phải rời khỏi Nhà chung Hải Phòng.
4 giờ sáng, thày Quynh ra ga xe lửa để về Hà Nội. Hiềm một nỗi, thày không có tiền mua vé nên đành liều đi lậu vé vậy. Thày cũng khá tinh ranh nên thoát được sự kiểm soát vé dễ dàng.
Lánh nạn tại dòng Chúa Cứu Thế Thái Hà
Đến Hà Nội, thày Quynh không dám vào Nhà chung ngay. Thày tìm đến nhà một bạn cũ là bác sĩ Bách. Đợi tối khuya, thày mới dám vào Nhà chung. Cố Huy Bề trên Đại chủng viện gặp thày thì vừa mừng vừa lo. Cố cho biết: Chiều nay mật thám Tây đang dò tìm thày. Cha bắt thày phải ẩn mình ở trên gác không được xuống. Thày đã phải sống cấm cố như thế ba tháng trời trên gác chủng viện. Rồi thày đến lánh nạn tại dòng Chúa Cứu Thế Thái Hà và tiếp tục tự học.
Ở đây, thày Quynh cũng có dịp tìm hiểu linh đạo Dòng do thánh Anphongsô sáng lập. Khác với dòng Châu Sơn - tinh thần đan tu khép kín, dòng Chúa Cứu Thế có xu hướng nhập thế gần với ý nguyện của thày Quynh hơn. Tuy nhiên, Dòng cũng không có sức hút thày ở lại.
Tháng 11/1946, quân Pháp nổ súng đánh chiếm Hải Phòng. Một tháng sau, toàn quốc kháng chiến, quân Cách mạng rút vào chiến khu vùng rừng núi, còn Hải Phòng, Hà Nội, Nam Định, Bùi Chu…là vùng Pháp chiếm đóng.
Năm 1947, Đại chủng viện thánh Giuse Hà Nội có điều kiện mở cửa khai giảng. Thày Quynh được cha Giám đốc gọi về học một năm nữa là hết toàn bộ chương trình. Thực ra năm học này là để kiểm tra kiến thức tự học của thày, chứ thày cũng chẳng phải học thêm gì nữa. Thày thấy giáo trình học ở chủng viện khi đó nhiều điểm đã cũ kĩ lỗi thời. Các giáo sư thuyết giảng gần như thuộc lòng, chẳng gợi mở được một suy tư gì mới. Thày đã trình với cha Giám đốc:
- Hay cha con đi du học nước ngoài?
- Cái đó là quyền Giám mục, thày không có quyền.
- Nhưng Đức cha Thịnh vừa qua đời rồi, Hà Nội đang khuyết Giám mục. Nếu con tự kiếm được tiền thì có đi được không ạ?
- Ồ, được lắm!
Thế là thày Quynh mượn luôn một phòng chủng viện còn dư để chiêu sinh dạy học.
13. CHUYỆN MỞ LỚP DẠY HỌC (1949)
Hồi đó vì là thời kháng chiến (1947 – 1948) loạn lạc, người dân khi tản cư, lúc hồi cư, học sinh bị gián đoạn học hành nên nhiều cô cậu đã lớn tuổi mà còn học ở lớp thấp. Thày Quynh mở lớp đào tạo cấp tốc, bảo đảm dạy 3 tháng xong một lớp. Họ đã đổ xô vào ghi tên nhập học. Nhất là trường Công giáo xưa nay vốn có uy tín với giới phụ huynh, Giáo cũng như Lương.
Để bảo đảm chất lượng học có hiệu quả, học sinh nhập học cũng phải sơ tuyển. Xét thấy cô cậu nào quá dốt, nhất là không có tinh thần hiếu học, thày Quynh không nhận dạy.
Sáng một lớp 60 học sinh, chiều một lớp 60 học sinh. Ai ghi tên chậm, quá số 60 không nhận nữa. Học phí 60đ / tháng. Vị chi mỗi tháng: 60đ x 60 x 2 = 7200đ (thời bấy giờ số tiền này là khá to, có thể mua được 9 xe đạp Peugeot Pháp, mà nhà nào có được một cái xe này đã là loại sang).
Thày Quynh mở lớp học cấp tốc liền một mạch 9 tháng trời. Các học sinh học đủ thời gian ở đây đều lên 3 lớp 100%. Như vậy, thày Quynh qua việc mở lớp dạy học đã kiếm được số tiền: 7200đ x 9 = 64.800đ.
Từ đây, thày hoàn toàn lo cuộc sống tự lập, không có cha nào đỡ đầu nữa.

CHƯƠNG BA
THỜI KÌ
XUẤT DƯƠNG DU HỌC
14. CHUYẾN VIỄN DƯƠNG ĐẦY LÍ THÚ
Năm 1950 là NĂM THÁNH nên ở Sàigòn người ta đi Rôma đông lắm, Tây cũng có, Ta cũng có. Chuyến đi du học của thày Quynh hoàn toàn tự túc, nên mặc dầu trong túi cũng có kha khá tiền song vẫn phải chi tiêu căn cơ tiết kiệm. Bởi vậy mà thày Quynh mua vé tàu loại 4 là loại rẻ nhất. Loại này phải nằm võng dưới hầm tàu, chân lép nhép nước ẩm ướt.
Sáng hôm ấy, nhẩm tính là ngày Chúa nhật, thày Quynh mò lên boong tàu vì nghĩ rằng Chúa nhật chắc phải có Thánh lễ. Nhưng thày đã bị nhân viên tàu chặn lại, không cho lên.
Thày ôn tồn nói:
- Hôm nay là ngày Chúa nhật, tôi cần đi dự lễ xong lại xuống ngay mà.
- Có đúng thế không?
- Chính xác.
Thế là thày Quynh được lên. Vừa lúc ấy có một ông cha đang chuẩn bị dâng lễ. Thày hỏi cha:
- Cha định dâng lễ như thế nào?
Linh mục đáp:
- Tôi dâng lễ ở trên cái bàn con này, còn mọi người đứng quây quần cả đây dự.
Thày Quynh hỏi cha:
- Thế ai giúp lễ? Ai hát lễ?
- Chẳng có ai cả. Tôi tự liệu tất!
Thày Quynh đề xuất:
- Cha để con lo liệu việc giúp lễ và hát lễ có được không ạ?
Linh mục mừng quýnh:
- Ôi thế thì tốt quá!
Nhìn đám người tụ họp trên boong tàu, thày Quynh thấy có cả mấy nữ tu trẻ. Thày hỏi các chị: “Chúng ta hát vài bài Thánh ca cho thêm phần sốt sáng chứ?” Nhiều gương mặt hồ hởi tán đồng. Thày Quynh đã chọn vài bài Thánh ca quen thuộc bằng tiếng Pháp như bài TIN CẬY MẾN, bài ĐÂY CHIÊN THIÊN CHÚA (Le voici l’Agneau si doux) trong quyển Cantiques de la Jeunesse rất thông dụng thời bấy giờ.
Thày Quynh giúp lễ. Các bài đọc và lời nguyện bằng tiếng Latinh, thày đều chuyển sang đọc bằng tiếng Pháp cho cộng đồng ở đấy dễ hiểu.
Sau buổi lễ đó, cả linh mục và cộng đồng dự lễ nét mặt đều hân hoan. Linh mục đã đề nghị với thuyền trưởng cho thày Quynh được lên khỏi hầm tàu. Mới đầu thuyền trưởng không nghe, nói nguyên tắc là mua vé loại nào phải ở loại ấy. Song nhiều người nói thêm vào với lí do để được phục vụ Thánh lễ hằng ngày cho thuận tiện nên cuối cùng họ cũng ưng thuận cho thày Quynh mang hành lí lên ở buồng riêng hạng nhất với linh mục.
Chuyến tàu viễn dương này khởi hành từ Sàigòn đi Pháp hết 29 ngày. Tàu đi qua Singapore đến Côlômbô thì nghỉ lại một ngày. Mấy cậu trẻ rủ chàng Quynh lên bờ đi chơi. Chàng bảo: “Tớ chỉ không có tiền đi để tiêu thôi, còn địa lí, thắng cảnh vùng này tớ biết hết…Tớ còn biết tiếng để giao dịch nữa.” Bọn họ reo lên: “Thế thì tuyệt rồi! Mời bạn đi làm hướng dẫn viên cho cánh mình, chi phí thì cánh mình xin bao tất.” Tuy thày Quynh chưa ra khỏi đất Việt bao giờ, song địa lí thế giới thì thày thuộc như lòng bàn tay. Thày vẫn hằng mơ ước được đi đó đây du lịch. Nay cơ hội đã đến, phải chớp ngay thời cơ.
Thế là cánh trẻ lên bờ, thuê ôtô đi thăm các thắng cảnh nổi tiếng của Côlômbô. Đến bữa ăn, họ kéo nhau vào khách sạn. Bọn họ rất khoái vì vớ được chàng bạn đường vừa thông thạo lại vừa nhanh nhẹn.
Cuộc hành trình lại tiếp tục. Tàu đến Biển Đỏ để vào kênh đào Suy-ê. Tàu chạy trong kênh nên phải đi với tốc độ chậm. Chàng Quynh đã nắm vững hải trình, giờ giấc của tàu nên lại rủ cánh trẻ lên bờ thăm đất nước Ả Rập Saudi rộng lớn. Rồi cứ bờ đông kênh đào, vọt lên tận Iraq thăm kinh thành Bátđa, xứ sở của bộ truyện NGÀN LẺ MỘT ĐÊM. Israel cũng ngay bên cạnh rồi, làm sao mà bỏ qua được. Bọn họ vào Jêrusalem thăm thánh địa của Do Thái, thăm hang đá Bêlem, rồi hành hương lên Nazaret, quê Chúa Giêsu, thăm cả Biển Hồ Galilê, núi Tabo, nơi Đức Giêsu biến hình. Sau đó bọn họ qua bờ Tây kênh đào thăm đất nước Ai Cập, nơi Kinh Thánh cả Cựu Ước và Tân Ước đều nói đến, nơi Thiên Chúa đã can thiệp vào lịch sử loài người. Rồi vùng núi Si-nai, nơi ông Môise đã từng gặp gỡ Thiên Chúa. Đương nhiên họ còn phải đến thăm Kim Tự Tháp, một kì quan nổi tiếng thế giới…
Hai ngày đi chơi thăm hàng chục nước thật đã đời thì tàu cũng vừa đến điểm hẹn bên bờ Địa Trung Hải.
Câu chuyện kể trên nếu nghe vào thời điểm hôm nay thì cũng chẳng có gì lạ lùng lắm. Bởi vì giờ chỉ cần có tiền thì muốn đi đâu cũng được. Có những tua du lịch sẵn sàng đáp ứng mọi nhu cầu đi lại xa gần của khách.
Nhưng cha Quynh đã kể cho chúng tôi nghe chuyện này vào thời điểm năm 1956 ở Hải Phòng. Khi ấy việc đi lại rất khó khăn: đến đâu ngủ một đêm, phải khai báo tạm trú, tạm vắng; tỉnh này sang tỉnh khác phải xin GIẤY THÔNG HÀNH. Vì thế, chúng tôi nghe chuyện mà lạ lùng như ở một thế giới ảo. Chẳng khác gì nghe chuyện THỦY THỦ SINBAT trong NGÀN LẺ MỘT ĐÊM.
15. THỜI KÌ DU HỌC TẠI PHÁP
(1950 -1953)
Mấy thằng con trai chúng tôi xúm quanh chiếc bàn viết bằng nhôm của cha Quynh để nghe cha kể chuyện. Cha ngồi giữa, tay nhè nhẹ xoay quả địa cầu, chỉ những điểm ngài đã đến trong thời xuất dương du học. Chúng tôi hỏi cha: “Bước đầu đến Pháp việc học hành của bố có được xuôi xả không ạ?” Ngài vừa trả lời vừa tiếp tục kể chuyện với chúng tôi:
+ Việc học hành và sinh hoạt
Thời ấy ai có tiền và có năng lực thì việc đi du học muốn là được. Đương nhiên, việc tôi nhập học Đại chủng viện Paris thì xuôi sẻ thôi vì có giấy giới thiệu của Đức Giám mục Hà Nội (Ngày 15/8/1950, Đức cha Giuse Maria Trịnh Như Khuê được tấn phong làm Giám mục tiên khởi Việt Nam tại Hà Nội).
Việc học ở Đại chủng viện Des Carmes nhàn rỗi nên tôi học thêm một trường đại học nữa là trường Sorbone. Điều vất vả của tôi không phải là việc học mà là việc kiếm tiền. Để kiếm thêm tiền ăn học, tôi phải đi rửa bát đêm tại các quán ăn. Công một giờ làm ban đêm bằng hai giờ làm ban ngày. Rửa thì hoàn toàn bằng máy, nhưng mình phải bưng bê từng chồng bát đầy, đi lại thoăn thoắt nên cũng vã mồ hôi.
Về sau, tôi đã lần mò ra cách kiếm tiền cao cấp hơn: viết báo, đi diễn thuyết về Việt Nam. Sang Pháp được nửa năm, tôi còn kéo thêm được hai bạn đi du học nữa là cha Thông và cha Oánh. Cha Thông sang Bỉ, được hưởng học bổng toàn phần (Tôi nhờ ông cha Bỉ đấy). Còn cha Oánh sang Mĩ. Tôi cũng vận động xin cho được suất học bổng toàn phần.
Trong gần 4 năm ở Pháp, các kì nghỉ hè tôi đều ở lại không về nước, vì về thì mất nhiều tiền, lại mất thì giờ nữa. Ở lại, nhiều điều bổ ích và lí thú hơn. Chúng tôi đã mua sắm ôtô, tổ chức cho cả nhóm sinh viên đi du lịch, khắp Châu Âu, Châu Phi và các nước Trung Cận Đông. Có hôm chúng tôi đã đi 900 km để ăn một bữa tái dê chấm mắm tôm (Hồi ấy mắm tôm ở Châu Âu là cực hiếm, vì phải mang từ Việt Nam sang. Nó là loại hàng ô nhiễm, phải đóng vào lọ, rồi lọ lại phải bỏ trong hộp kim loại hàn kín, để nếu lọ có vỡ thì mắm vẫn còn trong hộp, không thoát hơi ra ngoài).
Cứ ở đâu tổ chức giải bóng đá, Olimpic, hay Festival gì đó là chúng tôi đi liền.
+ Hoạt động đấu tranh cho Tổ Quốc
Bên cạnh việc học tập, nghiên cứu, du lịch và vui chơi, chúng tôi còn tích cực đấu tranh với Pháp cho Tổ Quốc. Lúc ấy, tôi được một số báo chí cánh tả viết bài khen ngợi là người đấu tranh mạnh mẽ nhất đòi quân Pháp rút về nước, trả độc lập cho dân tộc Việt Nam.
Đặc biệt, tôi đã vạch mặt thủ đoạn Pháp muốn li gián Cộng sản Việt Nam với Vatican. Vì hồi ấy báo chí Pháp có tung ra một tin rằng Tòa thánh Vatican đã ra một sắc lệnh chống Cộng. Tôi không tin, muốn viết báo phản bác lại, nhưng cần phải có chứng cứ cụ thể. Tôi đã sang tận Rôma gặp Bộ Ngoại giao Tòa Thánh để hỏi cho rõ thực hư. Tòa Thánh cho biết không phải như thế. Tòa Thánh không hề đụng chạm đến Việt Nam. Văn bản đó chỉ nói về Giám mục ở thành phố Syracuse, miền nam nước Ý mà thôi. Một thành phố do đảng Cộng sản Ý điều hành, có mô hình Công giáo và cộng sản sống chung với nhau rất thân thiện. Tiện xe ôtô, tôi lại lái xe chạy thẳng đến Syracuse để hỏi cho rõ ngọn ngành. Sau đó tôi trở về Pháp mới viết một loạt bài báo, cả đi diễn thuyết nữa để vạch mặt sự bịa đặt của thực dân Pháp. Ác liệt hơn là tôi đã có bài can gián các Giám mục Việt Nam đừng tin vào sự xuyên tạc của báo chí Pháp mà có thái độ đối lập với phía Cách mạng Việt Nam. Kì ấy không có người nào dám lên tiếng nói điều đó. Chỉ có tôi, một linh mục mới 26 tuổi, dám vạch thẳng thừng sự dối trá này ngay trên đất Pháp.
Có lẽ Phạm Huy Thông đã báo cáo hết về Việt Nam nên cụ Hồ, ông Đồng, ông Giáp đã biết rất rõ. Sau này, khi tôi về Hà Nội, các vị đó đã gặp ngay tôi để biểu dương khen ngợi.
16. CHỊU CHỨC LINH MỤC
Lễ Phục Sinh năm 1952. Vào ngày 5 tháng 4, tại Đại chủng viện Des Carmes, Paris có Thánh lễ long trọng truyền chức cho 7 tân linh mục. Thày Quynh là một trong bảy Tân chức đó. Thánh lễ truyền chức do Đức Giám mục Eveque Blanchet chủ tế.
Đón nhận Bí tích Truyền chức linh mục vào ngày lễ Phục Sinh đối với cha Quynh có một ý nghĩa thâm sâu đặc biệt: Từ nay, ngài phải sống đời sống mới, là hiện thân của Đức Kitô, vĩnh viễn không để những vương vấn tục lụy thế gian, những thù oán nhỏ nhen xâm chiếm tâm hồn mình. Từ nay Ngài “không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình”. Ngài chọn câu Kinh Thánh: “Tình Yêu Đức Kitô thúc bách tôi” (2 Cr 5,14) làm phương châm sống đời linh mục.
Vì thế ngài không buồn khi ngày trọng đại của đời mình lại vắng mặt ông bà cố, vắng mặt ba người em ruột thịt. Ngược lại, ngài còn thấy thanh thản và vui vì bớt được mọi hình thức rườm rà thế gian.
Tuy vậy, ngài cũng có vài người bạn thân tới dự lễ và có lẵng hoa chúc mừng. Cha Thông là người bạn thân đang học tại Bỉ cũng về dự Thánh lễ Truyền chức. Ngoài ra còn nhóm sinh viên Công giáo Việt Nam đang học tại Pháp, coi ngài là Đại ca của họ, cũng có mặt đầy đủ. Đặc biệt, trong nhóm có cả cô con gái ông Mai Văn Hàm mà ngài đã một thời làm gia sư dạy cô.
Tính đến năm 2006, các vị chịu chức đồng khóa với cha Quynh đã tiến rất cao trong các chức vụ Giáo Hội: Giám mục có, Tổng Giám mục có, Hồng y có. Chỉ riêng cha vẫn là một linh mục, một cha xứ nhà quê và hơn nữa, còn chịu khốn khổ với 28 năm tù quản chế. Bảy tân chức linh mục năm nào với những nén bạc Chúa trao, nay Chúa đã gọi về tính sổ bốn vị, chỉ còn lại ba vị, trong đó có cha Laurenxô Phạm Hân Quynh. Tạ ơn Chúa, đến nay ngài đã gần trời xa đất mà vẫn trung thành với ơn gọi, vẫn trong trắng như buổi ban đầu dâng Thánh lễ mở tay, vẫn được mọi người xa gần yêu mến kính trọng.
Chịu chức linh mục ngày 05-04-1952, tại Paris
Mừng ngân khánh linh mục 2002
17. ĐI DỰ HỘI NGHỊ QUỐC TẾ TẠI RÔMA
Chúng tôi nghe cha kể chuyện, có lẽ cả người nghe và người kể đều hứng khởi nên câu chuyện vẫn tiếp diễn. Tôi gặng hỏi thêm cha: “Bố hãy kể chúng con nghe một chuyến đi lí thú nhất.” Thế là cha lại tiếp tục kể:
Rất nhiều chuyến đi lí thú, nhưng đây là một chuyến đi oách nhất. Tôi vừa chịu chức linh mục xong thì bên Rôma có tổ chức một hội nghị quốc tế về Phong trào Hòa bình Chúa Kitô, lấy tên là Pax Cristi International. Tôi liền rủ hai bạn nữa là Tòng và Vĩnh đi hành hương. Trên đường đi, chúng tôi gặp hai ông bà già Việt Nam nữa làm thành một đoàn 5 người. Chúng tôi đến trước ngày khai mạc một ngày. Thấy ở đấy có thông báo đã có phái đoàn của 37 nước đến dự, tôi coi tên các trưởng đoàn thì đều thấy Hồng y và Tổng Giám mục cả. Tôi cũng vội vào đăng kí: Phái đoàn Việt Nam đã có mặt gồm 5 thành viên và tôi là trưởng đoàn. Tôi còn cho in ngay một xấp giấy để phát cho những người đến dự hội nghị tham khảo. Nội dung giấy nói lên dự kiến chương trình nghị sự của chúng tôi. Thế là phái đoàn các nước có mặt nhất trí bầu tôi làm Trưởng ban tổ chức và thay mặt cho cả Hội nghị vào chào Đức Thánh Cha, lại còn cử tôi dâng Thánh lễ khai mạc hội nghị trước 3 vạn đại biểu tham dự nữa.
Đương nhiên là Hội nghị này bàn về Phong trào Hòa bình Chúa Kitô trên bình diện cả thế giới. Nhưng đoàn chúng tôi không quên tranh thủ kêu gọi sự đồng tình ủng hộ Việt Nam, đòi buộc thực dân Pháp rút về nước, trao trả độc lập và hòa bình cho đất nước Việt Nam.
18. NGƯỠNG MỘ MỘT DÒNG TU
Hồi năm 1956, cha Quynh mới về Hải Phòng, bọn trẻ chúng tôi coi cha như cuốn “Từ điển bách khoa” sống nên hỏi cha đủ thứ. Một bạn nào đó hỏi cha: “Dòng Tên là gì”. Có lẽ loại câu hỏi này bây giờ chẳng còn ai hỏi cha nữa, vì con cái đã đỡ dốt hơn xưa. Họ cũng có thể tìm đọc sách LỊCH SỬ GIÁO HỘI dễ dàng và nhanh gọn hơn: mở mạng Internet, gõ câu hỏi đó là có bài trả lời ngay thôi.
Nhưng hồi đó chúng tôi nghe cha nói rất thấm thía, muốn nuốt lấy từng lời. Câu chuyện không những mở mang nhận thức mà còn chuyển biến đến cách sống của chúng tôi nữa. Chẳng ai ghi chép gì song kí ức tôi còn lưu lại chuyện cha kể như sau:
Dòng Tên do thánh Ignatius, người Tây Ban Nha, sáng lập vào thế kỉ XVI. Vị thánh nhân này vốn là con nhà quý tộc và thời trai trẻ cũng không đạo đức thánh thiện gì. Học hành chẳng đến nơi đến chốn nhưng chàng lại muốn phải có danh gì với núi sông, muốn làm hiệp sĩ xông pha trận mạc.
Năm đó, quân Pháp tấn công vào quê hương chàng, chàng đã chống cự đến cùng để bảo vệ quê hương. Kết cục, chàng đã bị bắn trọng thương và đã trở thành một phế nhân. Trong thời gian dưỡng thương, chàng được ơn hoán cải, quyết tâm thay đổi cuộc sống. Chàng đọc sách HẠNH CÁC THÁNH và rất mê thánh Phanxicô cùng thánh Đôminicô. Chàng thầm nghĩ: “Ta không còn làm vương tướng gì ngoài đời nữa thì ta phải làm thánh trong Đạo như các vị này.”
Chàng đã tận dụng mọi cơn đau đớn thể xác để rèn luyện linh hồn. Cuối cùng, chàng đúc kêt viết nên cuốn LINH THAO, trong đó vạch ra phương pháp điều khiển đời sống thiêng liêng, một đời sống nhằm phụng sự và tôn vinh Thiên Chúa.
Sau khi sức khỏe hồi phục, chàng thường đến các bệnh viện giúp người khác về đường thiêng liêng bằng chính kinh nghiệm của mình. Chàng còn say sưa giảng Đạo nữa. Vì giảng Đạo mà chưa được học đầy đủ nên chàng đã bị bắt giam mấy lần. Chàng đành phải đến Paris tiếp tục học văn hóa và học Đạo. Tại đây, chàng đã gặp một số bạn sinh viên cùng chí hướng như Phêrô Favre, Phanxicô Xavier… Về sau tất cả họ đã trở thành linh mục tại Paris. Họ đồng tâm nhất trí tận hiến đời mình cho sự nghiệp truyền giáo. Họ lấy tên là Đoàn Giêsu và đến Rôma đặt mình dưới sự điều khiển của Đức Giáo Hoàng Phaolô III. Lúc ấy họ có tất cả 10 người. Đwsc Giáo Hoàng đã phê chuẩn Đoàn Giêsu thành một dòng tu trong Hội Thánh và gọi là Dòng Chúa Giêsu. Riêng Việt Nam ta, kiêng tên cực trọng Giêsu nên gọi là Dòng Tên.
Tiêu chuẩn ơn gọi Dòng Tên rất cao. Các tu sĩ phần nhiều là những bậc học hành uyên bác, được đào tạo chuyên sâu về các lĩnh vực mà tu sĩ Dòng đảm nhận. Để truyền bá và bảo vệ Đức Tin Công giáo, các tu sĩ Dòng phải chiếm lĩnh được đỉnh cao trí tuệ về mọi lĩnh vực như khoa học, triết học, thần học, văn học nghệ thuật…Và đặc biệt, họ sống hòa nhập trong xã hội. Họ có thể là bác sĩ, kĩ sư, văn nghệ sĩ, chuyên viên khoa học, hay làm cố vấn cho vua chúa, cho những vị lãnh đạo quốc gia. Đức Giáo Hoàng Phaolô III đã sai phái Dòng Tên đi khắp Á, Phi, Mĩ Latinh truyền giáo. Riêng cha Ignatius ở lại Rôma và được bầu làm Bề trên Tổng quyền tiên khởi của Dòng.
Một điểm son nữa của Dòng Tên là luôn thao thức canh tân Hội Thánh, lo đào tạo giới lãnh đạo cho Hội Thánh để thích ứng với thời đại. Dòng Tên quả là cánh tay phải của Hội Thánh.
Trong lịch sử, Dòng Tên rất nổi tiếng song cũng chịu nhiều tai tiếng. Luôn bị nhiều phía tấn công, bôi bác, thóa mạ nên đã trải qua những bước thăng trầm: có thời kỳ phát triển, rồi đến thời kỳ khó khăn đến độ phải giải thể, nhưng lại được phục hồi và dần lớn mạnh như ngày nay.
Gần năm thế kỉ, Dòng Tên đã đóng góp nhiều nhân sự, tài lực, cả mạng sống vào công trình bảo vệ và truyền bá đức Tin nhằm thăng tiến con người. Riêng Việt Nam ta có được chữ Quốc ngữ đang dùng ngày nay cũng là nhờ công lao của Dòng Tên.
Cha Quynh kể về Dòng Tên với một vẻ đầy tâm đắc ngưỡng mộ. Chúng tôi cũng nhận thấy cha có nét hao hao giống một tu sĩ Dòng Tên nên đã mạo muội hỏi cha:
- Hình như bố cũng là một tu sĩ Dòng Tên?
Cha con cùng cười rất hồn nhiên. Rồi cha tiếp tục kể như dốc bầu tâm sự: “Năm 1952, khi vừa chịu chức linh mục xong, tôi cũng tìm đến Dòng Tên ở Paris xin nhập Dòng. Sau khi kiểm tra mọi mặt: từ sức khỏe đến học lực, từ tu đức đến năng khiếu sở trường, tôi đã được chấp nhận nhập Dòng và tương lai sẽ được huấn luyện trong một hệ thống trường đào tạo chuyên sâu nào đó. Đến khi ra trường, Bề trên sai phái đi đâu, làm gì thì sẽ phục tùng thực hiện như vậy. Lúc ấy tôi chỉ xin một nguyện vọng: Khi đào tạo xong thì cho tôi trở về Việt Nam, phục vụ Giáo Hội Việt Nam.
Vì đề nghị này mà tôi không được nhập Dòng Tên nữa. Đó là đã thiếu nhân đức vâng lời. Một trong ba nhân đức buộc tu sĩ Dòng phải có.

CHƯƠNG BỐN
BA NĂM CHA QUYNH
Ở HÀ NỘI
19. VÌ SAO CHA QUYNH VỀ NƯỚC? (1953)
Trong bốn năm cha Quynh du học tại Pháp, cha vẫn theo dõi diễn biến chiến cuộc trong nước. Bên quân Cách mạng dùng sách lược TRƯỜNG KÌ KHÁNG CHIẾN, rút vào rừng sâu thành lập các CHIẾN KHU và áp dụng chiến tranh DU KÍCH, nhằm tiêu hao lực lượng địch. Thế cờ của họ qua từng bước: cầm cự rồi đến tổng phản công. Cha nhìn thấy thế cờ tổng phản công đến rồi và quân Pháp sắp thua. Lúc ấy Đức cha Lê Hữu Từ đến Paris thăm Liên đoàn Công giáo Việt Nam, có ghé thăm cha. Cha Quynh trình bày điều đó với Đức cha Từ và tỏ ý không muốn Đức cha Từ dính líu vào chính trường nữa.
Cùng lúc ấy, nhiều lực lượng khác tìm đến và muốn vận động cha đứng về hàng ngũ họ. Phe Quốc trưởng Bảo Đại rồi ông Ngô Đình Diệm cũng muốn cha Quynh và nhóm sinh viên của cha hợp tác. Phía Cách mạng cũng muốn cha nhận nhiệm vụ hoạt động cho Cách mạng. Nhưng cha đã từ chối hết. Cha không muốn lệ thuộc. Cha đã chọn con đường: Chỉ làm linh mục của Đức Kitô mà thôi.
Vì sao cha Quynh về nước? Cho đến hôm nay, vẫn còn nhiều cách giải thích khác nhau về câu hỏi này. Cách nào cũng dựa vào lời cha nói cả nhưng lại khác nhau.
Năm 2009, vào dịp cha Quynh được phong tước Đức ông, Visentê Viễn, một bạn trẻ trong nhóm cộng sự đã viết một bài trên mạng VietCatholic, trong đó có câu: “Năm 1952, sau khi được phong chức linh mục tại Pháp, mặc dù cha rất muốn ở lại học tiếp nhưng người Pháp đã ngầm trục xuất cha về nước. Vì họ đánh giá cha là loại linh mục đỏ”. Đó là một cách giải thích.
Cách giải thích này đã bị một bài viết sau đó của tác giả Nguyễn Văn Lục phản bác: “Tôi không rõ VietCatholic lấy nguồn tin đó ở đâu, nhưng tôi nghĩ điều đó không chính xác, cần xét lại”. Rồi Nguyễn Văn Lục đưa ra cách giải thích khác chắc như đinh đóng cột vì đã dẫn nguyên văn câu nói của cha Quynh tại Pháp năm 1989 khi trả lời phỏng vấn của Trần Thị Liên: Vì sao cha về nước mà lại lựa chọn miền Bắc chứ không phải miền Nam?
“…Moi, je voulais vite rentrer au Vietnam pour assurer une présence catholique dans un régime communiste.” (…Tôi, tôi muốn mau chóng về Việt Nam để bảo đảm một sự có mặt của Công giáo trong một chế độ cộng sản). Đó là cách giải thích của Nguyễn Văn Lục. Tác giả bài này còn bình luận thêm: “Quyết định ở lại miền Bắc là một quyết định can đảm dễ mấy ai làm được. Ở lại miền Bắc không phải để theo Việt Minh mà để phục vụ Giáo Hội và đồng hành với Giáo Hội trong những gian lao thử thách sắp tới.”
Cách giải thích sau ở thế chủ động hơn, tích cực hơn cách giải thích trước. Tuy nhiên, không vì thế mà cách giải thích trước thiếu chính xác. Đúng là trong nhóm cộng sự chúng tôi đã từng nghe cha Quynh nói cha về nước là do Pháp ngầm trục xuất. Khi ấy chúng tôi còn hỏi cha: “Ngầm là thế nào ạ?” Cha trả lời: “Ngầm là không công khai ra lệnh trục xuất, không muốn làm to chuyện. Nhưng họ đã khôn khéo hơn, gửi điện trao đổi với Tòa Giám mục Hà Nội, chắc là họ kêu ca: Tên Quynh này quậy phá lắm, vuốt mặt không biết nể mũi, có nhẽ hắn là loại linh mục đỏ, đề nghị Tòa Giám mục gọi hắn về nước ngay thôi.”
Như vậy, bị trục xuất và muốn về nước là hai mặt của một vấn đề. Nói nôm na là đang muốn mau chóng về nước thì có lệnh hồi hương. Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên mà.
Về nước để thực hiện cuộc “sống chung”. Đó là một cách giải thích khác nữa mà người chép sách này muốn đưa ra cho thêm phần phong phú.
Thật vậy, có lần cha Quynh đã nói với chúng tôi, ngài về nước để thực hiên cuộc sống chung. Lúc ấy chúng tôi hỏi ngài: “Nội dung sống chung cụ thể là thế nào ạ?”.
Ngài nói: “Tôi chủ trương sống chung chứ không phải chung sống. Lịch sử đã để lại những thành kiến nặng nề từ hai phía, những xung khắc, những oán thù đến mức hầu như không đội trời chung được. Tôi nói từ hai phía có nghĩa là không phải chỉ mình họ có lỗi. Nếu ta lấy oán thù để đáp lại oán thù thì nó sẽ thành mối thù truyền kiếp. Nội dung sống chung của tôi là: Họ đánh ta, ta cố tránh đòn và đừng đánh lại. Hãy ngẫm xem xưa nay ta đã có lỗi gì để khiến họ căm ghét thế và hãy kíp sửa mình cho tốt, hãy sống ôn hòa và chân thành với họ, dần dần họ sẽ hiểu ra ta và sẽ hết oán thù.
Nội dung ứng xử này chẳng phải là cái gì mới. Đó chính là tinh thần của Đạo ta: Hãy yêu thương và tha thứ! Hãy xét mình và thành khẩn đấm ngực nhận ra “lỗi tại tôi”. Trong lịch sử Giáo Hội Pháp, Đức Lêô XIII đã làm như thế. Cuộc Cách mạng Pháp năm 1789 thành công, họ đã triệt phá Đạo nặng nề vì cho rằng Đạo gắn bó với chế độ phong kiến và đẳng cấp quý tộc. Còn Đạo lúc ấy ngả về phe Bảo hoàng để chống lại Cách mạng. Mâu thuẫn đối kháng đó làm cho chỉ trong 5 năm, một thời gian ngắn, dân tộc Pháp rơi vào cuộc nội chiến, cả hai bên đều ba bốn phen nổi chìm.
Để chấm dứt cuộc vật lộn liên miên giữa Giáo Hội và Cách mạng, Đức Giáo Hoàng Lêô XIII đã chủ động giải hòa và sống chung. Giáo hội cũng rút kinh nghiệm, không đi sâu vào thế quyền nữa.”
Lúc ấy trong bọn tôi, có người thốt lên:
- Ở Pháp khác, ở Việt Nam khác. Mình sống chung thì có khác gì đem trạch bỏ giỏ cua.
Tất cả cha con cùng cười vui vẻ. Cha Quynh bảo:
- Cua có gọng, trạch có tài luồn lách tránh đòn. Vẫn tồn tại được mới là điều cừ khôi chứ.
Rồi cha dịu giọng phân tích:
- Các chú thử nghĩ xem, cha ông chúng ta phải mất hơn 300 năm, tốn biết bao mồ hôi và xương máu mới có được cơ ngơi ngôi nhà Giáo Hội Miền Bắc hôm nay, bây giờ chúng ta không chấp nhận sống chung, bỏ đi hết thì Giáo Hội Miền Bắc sẽ thế nào? Có phải là sẽ bị xóa sổ, mất trắng hết không?
Chúng tôi đều im lặng, ngẫm nghĩ câu cha nói rất đúng.
Chợt một tiếng thở dài rất khẽ, rồi một giọng nữ nhỏ nhẹ:
- Vô thần thống trị hữu thần…có sống chung thì kết cục cũng một mất một còn mà thôi!
Cha Quynh vặn lại:
- Thế nào là “vô”? Thế nào là“thần”? Anh VÔ cái “thần” nào? Nên nhớ có nhiều thứ vô thần.
+ Vô thần MỒM (mồm bảo vô thần, song tin đủ thứ linh tinh).
+ Vô thần thực tế (mồm bảo tin, nhưng thực chẳng tin gì)
+ Vô thần giả: Họ vô cái gì họ gọi là thần, nhưng họ hiểu sai thần ấy.
+ Vô thần thật. Loại này thực sự hiếm bởi vì họ có một lí tưởng, một nhân văn, họ tưởng họ rất xa người Công giáo, nhưng như Dostoievsky nói họ thực sự rất gần, chỉ cần một li là họ đạt tới Chúa. Nhiều giá trị Công giáo đã thấm nhập vào nhân loại, người ta sống giá trị Công giáo mà không ngờ, có khi vẫn chống, vẫn chửi một cách bình thường.
Trong Công giáo có quan niệm về “hai thành trì”, “hai phe” trên trần gian. Đó là thành trì của Thiên Chúa, phe của Thiên Chúa và thành trì của Satan, phe của Satan. Hai thành trì này đối lập với nhau. Một bên là ánh sáng, một bên là tối tăm; một bên là sự thật, một bên là gian dối; một bên là tình yêu, một bên là độc ác; một bên là tốt đẹp, bên kia là xấu xa v.v…
Cứ lí luận ấy dẫn đến: Một bên là Giáo Hội, bên kia là cái gì chống lại Giáo Hội. Giáo Hội là “phe” của Chúa thì rõ quá và ắt bên kia là “phe” của Satan. Chỉ còn một bước là ai thắng ai? Thế thôi! Làm gì có chuyện sống chung.
Đúng, có sự đối lập giữa hai thành trì: Làm sao đoàn kết giữa ánh sáng và bóng tối được? Có sự nhất trí nào giữa Chúa Kitô và ma quỷ? Nhưng thành trì này là thế nào? Ranh giới nó phân biệt ra sao? Nó bao gồm những ai? Đặt chữ “ai” là bắt đầu giải quyết rõ ràng vấn đề.
Thực sự ranh giới ấy không đi giữa hai người, hai nhóm người, mà đi giữa tâm hồn của từng người. Vì vậy, nói cho đúng thần học một cách chính xác, không thể chia đôi trần gian làm hai phe người, hai loại người, hai nhóm người. Không có một phe kẻ lành, một phe kẻ dữ. Đây là hai phe “giá trị” không phải hai phe “người”. Hai phe giá trị trong mỗi người. Đây là ranh giới những gì tốt và những gì xấu, trong cả kẻ lành và kẻ tội lỗi.
Hiểu như thế, chúng ta không vỗ ngực nhận mình là phe của Chúa, còn ngoài ra là phe của ma quỷ tất. Rất sai lầm về mặt giáo lí và về mặt xã hội là rất tai hại, gây chia rẽ dân tộc.
Trong cuộc sống chung, chúng ta phải giúp đỡ nhau cho thành trì của Chúa lớn lên nơi mọi người. Chúng ta sẽ có con mắt giản dị, trong sáng, không thành kiến, không thù hằn, sẽ dễ dàng nhận ra cái tốt quanh ta và cố gắng làm cho cái tốt ấy lớn lên, đạt đến viễn giới sự sống đời đời. Đương nhiên là ta sẽ gặp nhiều khốn khó gian nan, song chính sự khốn khó ấy làm cho cuộc sống ta cao đẹp hơn, ý nghĩa hơn.
***
Những điều cha Quynh nói trên, trước đây nửa thế kỉ, chúng tôi nghe nó mới lắm, lạ lắm. Từ những câu chuyện như tào lao ngẫu hứng, ngài đã dẫn chúng tôi vào bài vỡ lòng thần học, đã mở mắt chúng tôi về cách sống Đạo mới. Chỉ tiếc là kí ức chúng tôi không còn lưu giữ được là bao.
Như vậy tóm lại, cuối năm 1953 cha về nước, không chỉ vì bị Pháp ngầm trục xuất, không chỉ vì giải pháp tình thế để giữ Đạo, mà còn vì một mục đích mênh mông hơn: sống chung để thu hẹp thành trì của Satan lại, để Giáo Hội Việt Nam được tinh tuyền thánh thiện, không những tồn tại mà còn trưởng thành.
20. BÀI GIẢNG HÒA BÌNH Ở PHỦ LÝ 1953
Cha Quynh vừa ở Pháp về Hà Nội thì vào dịp gần lễ Giáng Sinh năm 1953, Đức Giám mục Khuê sai cha đi phụ giúp xứ Phủ Lý. Cha Quynh về Phủ Lý đúng lúc cha xứ đang gặp một tinh huống bí. Đó là đồn lính Tây đóng ở Phủ Lý xin cha dâng một Thánh lễ Noel đặc biệt vào lúc nửa đêm với chủ đề “Cầu cho Hòa bình”.
Cha xứ vì không biết tiếng Pháp nên đã mời cha Quynh cáng đáng giúp. Chủ yếu là cha lo cho phần bài giảng bằng tiếng Pháp. Cha Quynh đã nhận lời.
Nhà thờ Phủ Lý đêm hôm ấy rất nhiều lính Tây. Sếp bốt xưa nay vẫn là một viên quan ba, song đêm nay lại thấy cả viên quan năm mới lạ đến. Họ ăn mặc đều chỉnh tề nghiêm trang. Lính từ trên xe ôtô cam nhông xuống, còn các sĩ quan đi xe con. Tất cả xếp hàng đôi đi rất trật tự vào nhà thờ. Họ đã ngồi vào các ghế hàng trên có đánh dấu dành cho họ. Những ghế còn lại là giáo dân ngồi. Giáo dân đi dự lễ Nửa Đêm cũng rất đông nên phải ngồi kín cả hai bên hành lang nhà thờ.
Xứ Phủ Lý hồi ấy là một vùng tề (vùng quân đội Liên hiệp Pháp kiểm soát), nhưng lại là tề hai mang. Nghĩa là ngày quân đội Pháp kiểm soát, đêm Việt Minh vẫn về hội họp. Vì thế, trong Đại lễ đêm nay cũng có nhiều người thuộc phe Kháng chiến trà trộn vào dự. Trong Thánh lễ, cha xứ đọc Evan bằng tiếng Latinh, cha Quynh đọc lại bằng tiếng Pháp. Đọc xong Lời Chúa, cha xứ mời cha Quynh giảng lễ.
Trong bài giảng đầy linh hứng bằng hai thứ tiếng Pháp - Việt, cha Quynh nói đại ý: Hôm nay chúng ta dâng lễ để cầu cho Hòa bình. Vậy hòa bình là gì? Có nhiều thứ hòa bình. Nhưng hòa bình mà chúng ta cần hướng tới là hòa bình loại nào? Đừng nghĩ rằng không có chiến tranh, không có phản kháng là hòa bình. Chúng ta thử xem lại vài kiểu hòa bình dị dạng mà ở nơi này nơi kia người ta đang theo đuổi xem sao:
+ Hòa bình kiểu mua chuộc (La Paix d’ achart): Anh biết người ta không ưa anh, anh dùng bả danh lợi, chức tước, địa vị, tiền tài mua chuộc họ, đấm mõm họ, biến người trí thức thành trí ngủ, thành người hèn, để họ ngậm miệng ăn tiền. Hơn thế nữa, anh ép họ còn làm tay sai cho anh, đàn áp những kẻ thấp cổ bé miệng, gây nên cuộc “huynh đệ tương tàn”. Hòa bình theo kiểu này, anh cũng thu được một số thành công đấy! Nhưng chúng ta không tán thành hòa bình kiểu đó. Không cầu nguyện mong thứ hòa bình ấy.
Kiểu hòa bình khủng bố (La Paix de Prison): Cũng may là đại đa số người dânViệt Nam không hèn, không ngại gian khổ, hy sinh. Nên kiểu hòa bình khủng bố không đè bẹp được ý chí kiên cường của họ. Nhà tù, súng đạn chỉ làm tăng thêm lòng thù hận quyết chiến mà thôi. Loại hòa bình nhưng lại khủng bố cả tinh thần và thể xác những con người bất đồng với mình. Họ dùng các phương tiện dã man như trấn áp, bỏ tù, hành hạ, và cả thủ tiêu nữa. Chúng ta không cầu nguyện cho hòa bình kiểu đó.
+ Kiểu hòa bình nô dịch (La Paix de terreux): Anh nói là anh khai sáng văn minh, tiến bộ cho dân tộc tôi, cho đất nước tôi, nhưng kì thực anh đang thực hiện chính sách nô dịch, biến dân tộc tôi thành nô bộc, nô lệ kiểu mới. Anh biến họ thành những con cừu non, những tên học trò mù quáng, chỉ biết tuân theo sự hướng dẫn của anh, không còn quyền làm chủ bản thân, quyền độc lập suy nghĩ. Anh thực hiện chính sách độc tài, chỉ anh là duy nhất đúng. Nghĩ khác anh, làm khác anh là sai trái, cần phải đè bẹp…
Cha Quynh còn đang say sưa giảng thì từ hàng ghế trên cùng, viên quan năm đã hằm hằm tức giận, đứng lên bỏ về. Đoàn tùy tùng cấp dưới cũng ra xe về theo.
Lễ xong, giáo dân ra về chuyện trò râm ran phấn khởi lắm. Họ ca ngợi bài giảng tuyệt quá! Sao cha trẻ ở đâu về mà lại mạnh mẽ, táo bạo thế nhỉ? Còn cha xứ thì tái mặt nói với cha Quynh: “Cha giảng thế thì chết tôi rồi! Đang lễ mà viên quan năm phản ứng đến độ đứng lên kéo quân về hết thì ngày mai chuyện chẳng lành sẽ đến ngay thôi.”
Cha xứ nghĩ mình đã dự đoán đúng, khi sáng hôm sau hai cha, một già một trẻ đang ngồi uống nước và dùng điểm tâm sáng thì thấy một lính Tây vào, đập gót giày chào theo kiểu nhà binh rồi đưa ra một phong thư, nói là của đại tá mời linh mục giảng lễ đêm qua. Cha Quynh đón nhận giấy mời liếc xem qua rồi bảo tên lính: “Anh cứ về đi! Nói với đại tá rằng đúng 8 giờ tôi sẽ có mặt tại đồn.”
Tên lính Tây bước ra khỏi phòng, cha Quynh nhìn thần sắc cha xứ đầy vẻ âu lo, cha xuýt bật cười. Ngài trấn an cha xứ:
- Cha cứ yên tâm. Con cũng đang muốn gặp thượng cấp của bốt Phủ Lý. Con có nghe ông Trùm Cả nói lính tráng của họ vào làng chẳng hỏi ai, chặt tre bừa bãi. Con sẽ nhắc cho ông ta bảo lính không được phá phách bừa bãi như thế.
Đúng giờ hẹn, cha Quynh có mặt tại đồn Phủ Lý. Một người lính Pháp dẫn cha vào bàn giấy quan năm. Cha tôn trọng chào trước. Viên đại tá đứng lên bắt tay chào lại đúng phép xã giao. Với dáng vẻ hơi lạnh lùng, ông ta làm hiệu cho người cần vụ mang nước và thuốc lá đến mời cha Quynh. Trong câu chuyện mào đầu cứng nhắc như: Linh mục về đây lâu chưa? Linh mục từ đâu mà đến?
Cha Quynh vốn sẵn có thủ thuật trong giao tiếp là biến thế bị động thành chủ động, bằng cách biến câu trả lời thành một câu hỏi mới rất tự nhiên:
- Thưa ngài, tôi mới ở Paris về. Xin lỗi, tôi nghe giọng ngài nói thì ngài không phải là người Paris, có lẽ ngài là người xứ Basque?
Viên đại tá hết sức ngạc nhiên, vẻ phấn chấn:
- Đúng xứ Basque là quê hương tôi. Làm sao mà linh mục biết được?
- Dễ thôi, như ở Việt Nam, người Hà Đông giọng nói khác người Thanh Hóa. Ở Paris tôi có người bạn học quê vùng Basque, giọng nói giống như ngài. Có mùa hè tôi đã về quê ngài. Người dân Basque có đặc tính là thẳng thắn và mến khách. Đặc biệt, trong lịch sử chiến tranh vệ quốc, xứ Basque của ngài nổi tiếng giàu truyền thống yêu nước. Tôi cũng học tập được đôi điều tốt đẹp từ nơi quê hương ngài đấy.
Viên quan năm đôi mắt long lanh hãnh diện, rất khoái vì từ nơi xa xôi đã bắt gặp một người am hiểu về quê hương mình. Nhưng ông ta cũng kịp nhận ra: Những điều mình muốn nhắc nhở răn đe vị linh mục giờ đã bị khóa lại mất rồi. Vì vị linh mục chẳng vừa nói: tính thẳng thắn, truyền thống yêu nước tốt đẹp là đã học được từ quê hương mình sao? Vị linh mục khen xứ sở Basque, đồng thời cũng khéo léo lấy quê hương mình làm lá chắn để bảo vệ ông ta. Thôi cũng đành nhắc vị linh mục đôi câu nhẹ nhàng để kết thúc buổi gặp sáng nay:
- Thưa linh mục, sáng nay chúng tôi mời ngài đến đây là có ý muốn nhắc nhở ngài rút kinh nghiệm bài giảng đêm qua, nên ôn hòa và nể mặt chúng tôi một chút. Chúng ta là bạn mà, đừng gay gắt nặng lời làm gì.
- Vâng. Tôi cũng mong muốn chúng ta là bạn tốt. Nếu là bạn tốt, xin ngài cũng nhắc nhở quân lính ở bốt này không nên vào làng chặt tre, phá phách bừa bãi nữa.
Viên quan năm: “Được! Được!” rồi bắt tay tạm biệt cha.
Dân Hải Phòng, nhiều người đã biết câu chuyện bài giảng Hòa Bình ở Phủ Lý 1953. Vì chỉ năm năm sau (1958), tại nhà thờ An Tân-Hải Phòng, cha Quynh đã giảng lại bài này lần thứ hai. Và lần ở Hải Phòng thì cha gặp phải phản ứng dữ dội hơn lần ở Phủ Lý (Chuyện số 41).
Đúng là lịch sử bị giễu cợt. Chỉ một bài giảng thôi, lần đầu bị Tây chê, phía Cách mạng khen. Lần thứ hai thì bị phía Cách mạng chê, bọn “giáo gian” khủng bố. Giáo dân thì cả hai lần đều khen cả. Chỉ có chính trị là muôn mặt..
21. CHA QUYNH LÀM THƯ KÝ
TÒA GIÁM MỤC
Cha Quynh đã kể với chúng tôi việc cha được cử làm thư ký Tòa Giám mục như sau: Năm 1953, cha vừa chân ướt chân ráo về nước, có lẽ Đức cha Khuê không muốn để cha Quynh ở Hà Nội ngay, sợ cha sẽ dính dáng với chính trị. Ngài cử cha về giúp cha xứ nhà thờ Phủ Lý. Song vì “bài giảng Hòa bình” của cha đối với Tây căng thẳng quá, dù cha không có khuyết điểm gì để phải thuyên chuyển ngay, Đức cha đã khôn khéo gọi cha về Tòa Giám mục để thăng chức Thư ký Tòa Giám mục cho cha.
Tình hình Hà Nội năm 1954 có nhiều diễn biến lớn lao và phức tạp. Năm 54 cũng như năm 45, chỉ hai con số hoán vị thôi mà đã tạo thành hai cái mốc quan trọng, hừng hực chứa đầy biến động trong lịch sử Việt Nam. Dầu chỉ viết về lịch sử Giáo Hội Việt Nam cũng không thể bỏ qua hai cái mốc này. Mở đầu từ ngày 13/04/1954, quân Cách mạng tấn công cứ điểm Điện Biên Phủ. Sau 55 ngày đêm giao tranh khốc liệt, quân Pháp đầu hàng, dẫn đến Hội nghị Genève ngày 20/7 ký kết Hiệp định đình chiến ở Đông Dương (gồm Việt, Lào và Campuchia). Đất nước Việt Nam tạm thời bị chia đôi ở vĩ tuyến 17. Bên phía Cách mạng tiếp quản miền Bắc, phía Quốc gia tiếp quản miền Nam.
Trong bối cảnh chính trị, xã hội rối ren nhớn nhác lúc ấy, thì tình hình Địa phận Hà Nội cũng nằm trong trạng huống chung này. Một số các cha xứ ở vùng sâu vùng xa đã nhớn nhác về tạm trú tại Nhà chung Hà Nội, hay Nhà xứ Nam Định. Đức cha Khuê may mắn có trong tay một dàn các linh mục tài năng được đào tạo ở nước ngoài như cha Vinh, cha Mai, cha Nhân. Cha Quynh cũng vừa kịp thời viết thư mời gọi cha Thông và cha Oánh về nước. Như vậy, Đức cha có dồi dào các linh mục ưu tú ở bên cạnh để tham vấn để có những quyết sách ứng phó kịp thời.
Địa phận Hà Nội đã có một chương trình Đại thuyên chuyển các linh mục. Cha Oánh vừa ở Mỹ về có thể còn gặp nhiều nghi vấn khó khăn. Đức cha giữ cha Oánh ở lại Tòa Giám mục đảm nhận chức Thư ký thay cha Quynh. Cha Quynh thì nhận bài sai về làm cha xứ Thạch Bích, Hà Đông và quản nhiệm mấy nhà thờ lân cận.
Đức cha Khuê làm một cuộc đảo lộn toàn bộ các linh mục dưới quyền ngài. Cứ lần lượt ngài viết bài sai từng linh mục một thuyên chuyển; sự thuyên chuyển đều có một nét tương đồng là cha nào cũng chuyển đến một nhiệm sở mới rất xa với nơi cũ mình vừa rời đi.
Cuộc Đại thuyên chuyển đã thực hiện xong trước tháng 10 năm 1954. Nghĩa là trước ngày chính quyền Cách mạng tiếp quản Hà Nội. Trong cuộc thuyên chuyển này, riêng dàn linh mục tài giỏi, ngài vẫn để ở gần mình.
22. VẤN ĐỀ CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT
Vùng Hà Nội năm 1954 chưa nếm mùi CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT (CCRĐ). Nhưng những người dân di cư từ Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh và Thái Nguyên (được gọi là Vùng tự do) ra nằm la liệt tại Hà Nội, thì họ đã nếm mùi CCRĐ rồi. Họ hốt hoảng nườm nượm kéo nhau ra đi, trông đôi mắt họ còn đầy vẻ hãi hùng như con gà vừa thoát bị cáo vồ.
Vấn đề CCRĐ đã khiến Tòa Giám mục Hà Nội và nhóm linh mục tư vấn quan tâm nghiên cứu. Rồi đây khi cơn đại họa này kéo đến Hà Nội ắt sẽ gây nhiều hậu quả tai hại cho đời sống Đạo và đời của vùng nông thôn Công giáo. Vì bị khủng bố và mua chuộc, con người sẽ nhắm mắt chà đạp lên lương tâm mình, sẽ vi phạm đức công bằng, đức bác ái và sự thật là những nhân đức nền tảng của Giáo Hội, là tinh thần của Chúa Kitô.
Để cảnh báo cụ thể cho đoàn dân Chúa trước đại họa, Đức cha Khuê đã ra Thông cáo số 15: Cấm giáo dân tố điêu: bỏ vạ, cáo gian, vu khống. Cấm giáo dân nói và làm điều lỗi đức công bằng và sự thật. Thà chịu đau khổ quyết không phạm tội, lỗi giới răn Chúa… Đó là tóm tắt nội dung Bản Thông cáo của Đức cha. Các linh mục có nhiệm vụ mang Bản Thông cáo ấy về nhiệm sở mình phổ biến cho cộng đồng dân Chúa rõ.
Cha Quynh không những đã đọc nguyên văn bản Thông cáo số 15 mà còn mở rộng, khai triển thêm để bà con giáo dân nắm cho chắc nữa. Cha đã thực hiện rất mạnh mẽ tại các nhà thờ ngài quản nhiệm, thậm chí xa hơn đến những vùng chưa có linh mục coi sóc như: nhà thờ Bình Đà, Mĩ Đức, Đồng Chiêm, Sải, Kẻ Ái v.v… Đến xứ nào cha Quynh cũng dâng lễ, giảng và giải tội, khuyên răn trước. Đến xứ nào cha cũng đều nói: Tôi đến đây là lần cuối cùng, lần sau khi sự dữ xảy ra thì chẳng còn cha nào đến được nữa. Vậy ai có tai thì hãy nghe và nhớ lấy!
Đúng là sau chuyến đi đó, họ đã cấm cha Quynh đến các vùng này. Song nhờ có cuộc Đại thuyên chuyển và bản Thông cáo số 15 rất kịp thời mà khi cơn bão CCRĐập đến đã giảm thiểu được tác hại, đau khổ và mất mát cho cộng đồng dân Chúa trong Địa phận.
23. CHA QUYNH QUYẾT LIỆT CHỐNG HÀNG NGŨ GIÁO SĨ DI CƯ VÀO NAM
Sau Hiệp định Genève, ở các thành phố như Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, đâu đâu cũng chỉ thấy người dân bàn tán xôn xao: ra đi hay ở lại. Người ta tính tỉ số người ra đi ở các vùng kể trên vào khoảng từ 80% đến 95%. Người viết bài này chẳng rõ tỉ số đó có chính xác không.
Còn về phía Địa phận Hà Nội, theo hồi ký của Đức cha Trọng kể thì Hà Nội có 140 linh mục đã đi 80. Tại sao hàng giáo sĩ lại ra đi nhiều như vậy? Đây không đơn thuần chỉ là chuyện yêu – ghét, mà phải nói chính xác là khiếp sợ. Vùng Khu 4 (Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh) đã làm thí điểm CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT (CCRĐ) từ năm 1953. Giờ đây họ đang bỏ cửa bỏ nhà ra đi trong tinh thần hoảng loạn.
Dân đã sợ nhưng các linh mục còn sợ hơn. Ở các xứ Đạo nhà quê, xứ nào chẳng có ruộng Nhà thờ, ruộng Đức Bà cho phát canh thu tô. Linh mục là người cai quản nhà thờ, không cày ruộng mà thu tô thì đúng thành phần địa chủ rồi. Chẳng nhẽ Đức Bà là địa chủ? Nếu linh mục nào có máu chống cộng, hoặc đã dây vào chuyện rào làng lập bốt, nhận súng của Tây thì giờ càng phải mau cao chạy xa bay.
Việc xứ Đạo giữ súng rào làng xem như một biểu hiện chống đối Cách mạng. Thực ra đấy chỉ là một giải pháp tình thế tự vệ. Không cho Việt Minh đến thì đồn Tây sẽ không nã pháo vào làng, không càn quét phá phách, làng sẽ bớt tổn thất thiệt hại người và của.
Trước tình hình nhiều linh mục tuốn về Hà Nội để di cư một cách vô tổ chức, Đức cha Khuê thấy phân vân khó nghĩ. Ngài liền tham vấn cha Quynh, lúc ấy là trợ tá Tòa Giám mục kiêm quản lí Nhà chung. Cha Quynh góp ý với ngài rằng: “Đối với giáo dân thì đi hay ở là tùy người ta. Còn linh mục, tu sĩ thì Đức cha phải ra lệnh cấm di cư.”
Đức cha Khuê không nói gì. Cha Quynh coi như ngài ưng thuận. Liền về phòng thảo ra một Thông báo:
LỆNH ĐỨC GIÁM MỤC cấm các cha di cư vào Nam. Cha nào đã về đây thì chỉ được giải quyết nơi ăn chốn ở một ngày. Xin mời các cha mau chóng trở lại nhà xứ cũ.
Cha Quynh trình Đức cha duyệt bản Thông báo. Đức cha xem rồi bảo: “Sơ sài quá! Cha viết thêm vào vài điểm nữa cho chặt chẽ văn bản: Cha nào xét thấy ở lại có lí do để bản thân gặp nguy hiểm, hoặc sẽ gây bất lợi cho Giáo Hội thì trực tiếp gặp Đức cha đề đạt nguyện vọng để ngài xem xét cho phép đi. Cha nào không được phép đi mà vẫn cố tình đi thì bị phạt vạ Suspensio, nghĩa là bị treo chén”.
Chúng tôi đôi lần được nghe cha Quynh kể chuyện ngài đã đấu tranh quyết liệt để giữ hàng giáo sĩ Hà Nội ở lại. Khi ấy cha con chúng tôi chuyện trò, đối thoại rất thân tình. Chúng tôi hỏi cha:
- Làm như thế, cha có bị phản ứng mạnh không?
- Có. Rất mạnh! Cha thì bảo tôi là linh mục cộng sản, cha thì giễu tôi là cháu ngoan bác Hồ. Có cha bảo: Rồi sẽ biết, không bị móc mắt thì cũng tù suốt đời.
Tôi đáp:
- Nếu quả có việc đó xảy ra sau này thì tôi cũng vui lòng chấp nhận. Chỉ xin các vị khi đó đừng chê cười tôi, hãy thương tôi và cầu nguyện cho tôi được chịu khó cho nên.
Một số cha bất chấp lệnh Giám mục cấm, vẫn cứ trốn đi Nam. Cha Nguyễn Thái Bá trốn xuống Hải Phòng, đến cầu Phú Lương bị Cách mạng bắt lại. Cha Quynh biết tin, phải đến xin bảo lãnh cho về. Còn thày Sang và 3 linh mục nữa đã đi thoát vào đến Sàigòn. Cha Quynh vào tận Sàigòn tìm và đưa tất cả trở về Hà Nội.
Thảo nào cha Triều nói với chúng tôi: “Không có cha Quynh thì làm sao có Giám mục Sang, làm gì có linh mục mặt trận Nguyễn Thái Bá!”.
Chúng tôi hỏi cha:
- Cha xông xáo như vậy, không sợ bị nghi ngờ, bị bắt à?
- Sự thực thì lúc ấy giữa đám hỗn độn người dân di cư nằm la liệt ở sân Nhà chung, tôi đã gặp cả người của Pháp và của Cộng sản tìm đến liên hệ với tôi. Như tên Kỳ làm ở Phòng Nhì (2è Bureau) của Pháp bảo tôi: “Cha ở lại con sẽ trao cho cha một máy điện đài và một số tiền, cha sẽ sử dụng để thu lượm tin tức cho con.” Còn cán bộ cộng sản thì bảo tôi: “Chúng tôi biết linh mục là người yêu nước. Ngài hãy dùng cương vị mình, tích cực vận động bà con Công giáo ở lại, đừng di cư theo địch. Cả hàng ngũ giáo sĩ cũng thế.” Rồi họ trao cho tôi một tệp giấy GIỚI THIỆU có đóng dấu sẵn của Chính quyền Cách mạng.
- Bố có thái độ ứng xử thế nào?
-Tôi đã mắng vào mặt tên Kỳ và tất nhiên không nhận gì. Còn những giấy có đóng dấu lưu không của bên Cách mạng trao cho tôi, tôi đã dùng nó để viết giấy giới thiệu, bảo lãnh cho các cha mà tôi vận động ở lại được trở về nơi cũ an toàn. Tâm lí các cha đã chót di cư, khi tôi vận động ở lại thường lo sợ. Bảo tôi: “Cộng sản họ đa nghi lắm! Mình đã ra đi rồi mà giờ lại thấy trở về là họ bắt ngay. Mà khi trở về còn phải qua một vùng đồn bốt Tây kiểm soát nữa. Có thể Tâ ynó cũng bắt…Những tình huống ấy, tôi đã giải quyết bằng cách lấy xe con của Tòa Giám mục đưa các cha an toàn qua đồn bốt Tây. Còn sang đến vùng Việt Minh thì các cha đã có giấy bảo lãnh của tôi rồi.
Cha Quynh kể tiếp:
- Có một chuyện rất cảm động là sau này một trong ba ông cha tôi dẫn độ từ Nam về đã bị hành hạ trong CCRĐ. Tôi đã tìm đến và nhận lỗi là vì tôi mà cha phải khổ. Cha có oán hận tôi không?
Cha đó trả lời:
- Tôi không hề oán cha. Ngược lại, tôi đã biết ơn cha nhiều lắm!
- Vậy thì tôi cũng cám ơn cha, vì lòng tôi đã hết ray rứt…
Như vậy xem ra Đức cha Khuê và cha Quynh là một cặp thầy trò ăn ý, không đến nỗi như có người tưởng là kị nhau. Vì thế mà hơn 20 năm Nam Bắc cách ngăn, Giáo phận Hà Nội được kể là còn nhiều chủ chăn nhất so với Thái Bình, Bắc Ninh, Bùi Chu, Hải Phòng.
24. HỒ CHỦ TỊCH MỜI GẶP MẶT
Ngày 10/10/1954, Chính quyền cách mạng tiến vào tiếp quản thành phố Hà Nội. Chỉ mươi ngày sau, cụ Hồ đã có giấy mời đích danh: Đức Giám mục Trịnh Như Khuê và linh mục Phạm Hân Quynh, thư ký Tòa Giám mục, vào Phủ Chủ tịch.
Đức cha Khuê xưa nay vốn không ưa phải tiếp xúc nơi quan trường, song hôm nay có cha Quynh cũng được mời cùng đi nên ngài yên tâm.
Đúng giờ và địa điểm ghi trong giấy mời, Đức cha Khuê và cha Quynh có mặt tại Phủ Chủ tịch. Cụ Hồ ra tận cửa bắt tay đón mời vào phòng. Lúc ấy phòng khách của Chủ tịch không vệ sĩ, không thư kí, không có bất cứ một ai. Có lẽ cụ muốn xử sự một cách thân mật đặc biệt.
Trong màn chào hỏi, Đức cha giới thiệu cha Quynh cùng đi. Cụ Hồ tỏ ra rất hài lòng vì được gặp vị linh mục trẻ nổi tiếng là người cương trực.
Cụ nói:
- Ở bên Pháp, linh mục đã dám đấu tranh mạnh mẽ, đòi buộc người Pháp phải trả lại độc lập cho Việt Nam. Về Việt Nam, vẫn khí phách kiên cường ấy, lại vạch mặt đạo đức giả của bọn thực dân xâm lược Pháp tại nhà thờ Phủ Lý đêm Noel năm vừa qua. Linh mục quả là người dũng cảm, rất đáng tuyên dương khen ngợi.
Rồi cụ Hồ quay sang Đức cha Khuê:
- Thưa cụ Giám mục, chúng tôi biết tin Cụ có thành tích đã kịp thời ngăn chặn các chức sắc của mình, không cho di cư vào Nam theo địch. Điều đó tốt lắm! Nhưng…
Đột nhiên cụ Hồ nhìn Đức cha Khuê:
- Tại sao cụ Giám mục chỉ ra lệnh cho hàng chức sắc ở lại thôi? Phải kêu gọi cả tín đồ của mình không được di cư chứ! Tôi thương đồng bào Công giáo bị địch xúi giục bỏ nhà ra đi, không làm mồi cho cá biển thì cũng vùi xác trong đồn điền cao su, hoặc làm bia đỡ đạn cho địch. Tôi thương đồng bào Công giáo lắm!
Nói đến đây, cụ Hồ rút từ trong túi áo ra chiếc khăn mùi soa rồi đưa lên chấm chấm mắt, ý như lau nước mắt. Đức cha Khuê hơi lúng túng, ra dấu cho cha thư kí trả lời. Với óc quan sát tinh tường, cha Quynh ngạc nhiên vì thần tượng bị sụp đổ qua cử chỉ cụ Hồ lau nước mắt. Tuy nhiên, ngài vẫn đáp lời cụ Hồ bằng giọng nói lễ phép.
- Thưa cụ Chủ tịch, Đức Giám mục cháu đây chỉ có quyền ra lệnh cho hàng giáo phẩm dưới quyền mình phải ở lại. Vì chủ chăn chưa đi thì linh mục là nhân sự của ngài chưa được đi. Còn giáo dân thì lại khác, họ có quyền tự do lựa chọn nơi cư trú; ở đâu, làm gì, đó là quyền tự do của họ. Giám mục cháu không dám ngăn cản họ ở lại. Vì làm như vậy là vi phạm vào chữ kí của cụ, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã thay mặt cụ kí trong hiệp định Genève đấy ạ.
Nghe những lời nói ôn tồn và sắc sảo của cha Quynh, nét mặt cụ Hồ bỗng biến đổi. Cụ chuyển sang câu chuyện khác, rồi kết thúc cuộc gặp.
25. CHA QUYNH TRÊN LỄ ĐÀI BA ĐÌNH
Ngày 10/10/1954, Chính quyền Kháng chiến vào tiếp quản Hà Nội. Cả thành phố rục rịch chuẩn bị gần ba tháng trời cho ngày duyệt binh đầu tiên của thủ đô Việt Nam giải phóng. Khắp phố phường đều làm cổng chào, giăng cờ kết hoa. Tối tối từng đoàn người tập dượt diễu hành trên phố.
Người viết bài này khi ấy cũng có mặt trong các buổi tập diễu hành, thuộc khối sinh viên, còn quá ít so với khối khác. Tối nào cũng chỉ tập đi một hai, một hai…Hàng ngang 8 người phải thẳng, hàng dọc phải cách đều và phải bước đều. Hai tháng trời tập vất vả để giành cho một ngày. Ngày ấy đã đến.
Đó là ngày 1 tháng 1 năm 1955. Tôi cũng không nhớ khi đó người ta gọi ngày này là ngày gì? Ngày lễ mừng Chiến thắng hay ngày Chính quyền Cách mạng ra mắt quốc dân? Tôi chỉ biết lòng tôi lúc ấy cũng rộn rã lắm! Tôi bất giác nhớ lại khúc hát:
“Trùng trùng quân đi như sóng
lớp lớp đoàn quân tiến về.
Chúng ta đi nghe vui lúc quân thù đầu hàng
Cờ ngày nào tung bay trên phố…”
Quả là một ca khúc “tiên tri” mà Văn Cao đã sáng tác từ năm năm về trước, nay đã thành hiện thực. Khi đi qua lễ đài Ba Đình, ai trong khối diễu hành cũng hướng về lễ đài trên cao, vẫy chào các vị lãnh tụ và các quan chức cao cấp. Tôi cũng làm như thế.
Lúc đó tôi có ngờ đâu trên lễ đài cao trọng ấy lại có cha Quynh, một linh mục trẻ Hà Nội.
Sau này cha con gặp nhau ở Hải Phòng, chúng tôi mới được nghe cha kể chuyện đã ngồi trên lễ đài Ba Đình xem duyệt binh:
- Tôi được mời đón rất trọng vọng, có xe đưa đón hẳn hoi. Họ xếp tôi ngồi số ghế 192, còn trên Balan số 193. Chỉ có sau Liên Xô số 190 và Trung Quốc số 191.
Chúng tôi hỏi cha:
- Cha được mời với danh nghĩa gì?
- Tôi cũng chẳng biết nữa. Chỉ thấy giấy mời đích danh
là đi.
Nghe vậy, chúng tôi cười, bình luận tếu:
- Cha là ngang cấp đại sứ rồi. Có lẽ người ta muốn ngài thay Đức Khâm sứ Dooley chăng.
26. CHUYỆN LÀM MỤC VỤ VỚI ĐỊA CHỦ
Cơn bão “Cải cách” long trời lở đất đã ập đến toàn bộ miền Bắc Việt Nam. Liên quan đến sự kiện này có câu chuyện làm mục vụ với địa chủ, chúng tôi được nghe cha Quynh kể lại như sau:
Một hôm ông Trùm Hai từ Thạch Bích lặn lội ra Nhà chung Hà Nội tìm cha Quynh, hớt hải nhìn trước nhìn sau rồi trình:
- Thưa cha. Có ông Phúc, cha còn nhớ không?
- Ông Phúc, bố cô Cậy, nhà ở bên bờ ao đằng sau nhà thờ có phải không?
- Vâng. Cha còn nhớ đấy. Giờ ông ấy bị quy là địa chủ cường hào rồi! Mọi giống tội xấu xa nhất trên thế gian họ đều chụp lên đầu ông ấy cả.
- Tôi đã căn dặn trước rồi mà họ vẫn còn tố điêu à?
- Không. Giáo dân vẫn nhớ lời cha dạy bảo, không ai dám tố điêu. Đây là mấy cốt cán dân ngoại. Hiềm một nỗi, chúng con không ai dám bênh vực ông Phúc để làm chứng sự thật. Đội Cải cách đã quy định: Đối với địa chủ, bà con nhân dân chỉ được phép giơ tay đả đảo! đả đảo! không được giơ tay có ý kiến bao che. Đó là lập trường giai cấp phải giữ vững. Vì thế chúng con rất ấm ức mà đành ngồi yên.
- Giờ ông Phúc ra sao rồi?
- Thưa cha, rất yếu. Con gái không được vào, chỉ có đứa cháu vào thăm, đút cho ông thìa cháo. Có lẽ ông sắp chết rồi ạ.
- Liệu tôi có vào được không?
- Cũng có thể nên con mới ra trình cha. Nhưng phải hết sức khéo léo. Cha nên vào lúc 12 giờ rưỡi đến 1 giờ rưỡi. Phải đi cổng sau nhà thờ. Đội canh gác ở trên nhà ông Phúc, còn ông Phúc bị xích ở dưới bếp, ngay bên bụi găng rậm rạp. Cha từ đằng sau bụi găng mà lẻn vào là chúng không nhìn thấy.
- Thôi được rồi. Ông trùm về trước đi! Nếu có gì khác thường thì báo hiệu cho tôi ngay ở nhà bà Quế nhá.
Cha Quynh chuẩn bị xong Dầu Thánh và Mình Thánh rồi vội vã lên đường.
Đúng trưa, cha đạp xe đến nhà bà Quế ở đầu làng Thạch Bích. Dân gian có câu “mưa không qua ngọ…” thế mà trưa nay trời lại lấm tấm mưa. Bà Quế thấy cha thì mừng rỡ kéo ngay vào trong nhà. Cha ra hiệu để lúc khác chuyện trò, giờ cho cha gửi chiếc xe đạp và kiếm cho cha xin một chiếc nón với cái áo tơi lá. Bà nói: “Nhà chỉ còn đồ cũ thôi, để con chạy đi mua cho cha nón áo mới.” Cha bảo: “Càng cũ càng tốt. Đưa mau nón áo ra đây.” Cha liền mặc áo tơi, đội nón đi ra…
Sự tháo vát, nhanh nhẹn, ưa mạo hiểm thời “Hướng đạo sinh” năm nào nay cha có dịp nếm lại. Thoắt cái cha đã đến cánh đồng sau nhà thờ. Dáng dấp như anh chàng chăn vịt, cha mò vào bờ ao, rồi dò dẫm đến bên bụi găng. Quan sát thấy yên ắng, cha lẻn vào bếp. Ông Phúc nằm co ro như đang ngủ. Cha ghé sát tai gọi: “Ông Phúc ơi! Cha Quynh đây!” Ông lờ đờ hé mắt nhìn. Khi định thần đúng cha Quynh rồi, nét mặt ông bỗng biến đổi rất nhanh. Từ ngạc nhiên, đến mừng rỡ, đến hạnh phúc và cuối cùng là mãn nguyện.
Cha Quynh đã cho ông Phúc chịu các phép Bí tích trong Đạo đầy đủ: Bí tích Giải tội, Bí tích Xức dầu và Bí tích Mình Thánh. Cha khuyên ông can đảm vững vàng vượt qua mọi đau khổ để vào hưởng vinh quang với Chúa.
Ông Phúc tỏ ra an tâm và vui mừng lắm. Giờ thì ông chẳng còn sợ gì nữa. Ông tạ ơn Chúa vì đã thương ông, đã sai cha đến với ông trong giờ phút ngặt nghèo này. Ông nắm tay cha, miệng lắp bắp: Tạ ơn Chúa! Con tạ ơn Chúa!
Cha Quynh đã hoàn thành nhiệm vụ, vứt nón, áo tơi vào xó bếp, buông áo chùng thâm xuống, ung dung bước ra về. Vừa ra khỏi sân nhà ông Phúc thì gặp một toán dân quân do một phụ nữ cầm đầu. Người phụ nữ đó quát:
- Anh là ai? Vào nhà này làm gì?
- Tôi là linh mục. Tôi đến nhà giáo dân để làm các phép Đạo theo đúng bổn phận của một linh mục.
- Anh có biết giáo dân của anh là kẻ có tội không?
- Tôi biết. Chính vì biết mà tôi là một linh mục cần phải đến.
Người phụ nữ giọng hách dịch, càng quát to hơn:
- Anh có giấy tờ gì chứng minh anh là một linh mục?
Cha Quynh nắm vạt áo chùng thâm nâng lên nói:
- Thưa, tấm áo chùng thâm này nói lên điều đó.
Người phụ nữ giọng mỉa mai:
- Áo với chả quần. Anh cởi bỏ bộ quần áo ấy ra thì anh cũng như tôi mà thôi. Linh mục gì anh.
Cha Quynh bình tĩnh phản ứng:
- Bà nói sai rồi.
Người phụ nữ nổi đóa:
- Á, anh này láo! Ai cho phép anh dám nói cán bộ sai? Dân quân đâu, giải anh này về xã cho tôi!
Khi ấy nhiều giáo dân đã kéo đến. Cha Quynh ôn tồn nói:
- Tất cả bà con ở đây đã nghe rõ, bà ta vừa bảo cởi áo quần ra thì ai cũng như ai. Tôi bảo bà ta nói sai rồi. Tôi khác bà ta chứ. Bây giờ trước mặt nhân dân, bà và tôi cùng cởi ra xem ai đúng ai sai!
Mọi người cười ồ lên. Bao nhiêu con mắt chiếu về phía người phụ nữ. Bà ta đỏ mặt, chạy vội vào nhà ông Phúc. Đám dân quân cũng lẽo đẽo vào theo.
Mấy người giáo dân sán đến bên cha nói nhỏ: “Chúng con lo cho cha quá! Thôi cha về ngay đi.”
Cha Quynh ra nhà bà Quế lấy xe đạp và trở về bình an.
27. NHỮNG BUỔI GIÁO LÍ ĐẶC BIỆT
Người viết đặt tựa đề bài này là “NHỮNG BUỔI GIÁO LÍ ĐẶC BIỆT” bởi vì đây không phải là một lớp giáo lí thông thường. Nó đặc biệt cả về nội dung, cả về hình thức. Về nội dung, trước đó, nói đến học giáo lí là học Kinh Bổn (Kinh Bản), Ý nghĩa Đức Tin, Ý nghĩa Bảy phép Bí tích v.v… Về hình thức, thường là tổ chức lớp học, có phòng học, có danh sách học viên, có khai giảng và kết thúc khóa học.
NHỮNG BUỔI GIÁO LÍ ĐẶC BIỆT này được tổ chức tại sân trường Dũng Lạc, Nhà chung Hà Nội, vào các ngày thứ Ba hàng tuần. Mới đầu có một hai trăm người tham dự. Về sau, càng ngày càng đông, có buổi lên đến trên ngàn người, phần nhiều là giới trẻ và sinh viên.
Hình thức học: Khởi đầu nghe một cha thuyết trình về một bài giáo lí. Có 3 cha luân phiên nhau thuyết trình là cha Thông, cha Oánh và cha Quynh. Cha nào giảng cũng hay, cũng hấp dẫn, nhưng cha Quynh thì có phần dí dỏm hơn. Thời gian giảng mỗi bài độ nửa giờ. Sau đó người tham dự đặt câu hỏi để được giải đáp. Phần này rất sôi động: có đồng tình, có phản biện. Vì nội dung chủ đề bài thuyết giảng thường là rất mới mẻ, cập nhật, có liên quan đến nhân sinh quan, thế giới quan đang thống trị trong các nhà trường của chế độ Cách mạng.
Tôi còn nhớ một buổi học mà mình được tham dự. Hôm ấy chủ đề bài học là: TÔN GIÁO LÀ GÌ? Tôi chỉ còn nhớ láng máng bài thuyết trình: Vì con người là hình ảnh Thiên Chúa, nên luôn khắc khoải hướng về Thiên Chúa là nguyên ảnh của mình. Cái niềm khắc khoải muốn liên hệ với Đấng thần thiêng ấy là khởi đầu của Tôn giáo.
Bài học này có nhiều vấn đề đụng chạm tới ý thức hệ hiện hành tôi chẳng còn nhớ hết được, song cũng chẳng cần bê cả bài vào đây. Trong bài giáo lí ấy còn một ý nữa là: Tôn giáo là phản ảnh ý thức của linh hồn, là đặc điểm để phân biệt con người với con vật. Thiên Chúa còn đặt lề luật Chúa trong lòng con người gọi là lương tâm. Con người sống theo đúng lương tâm đã là có tôn giáo. Đạo này gọi là đạo tự nhiên. Bởi thế, bất cứ thời gian nào, bất cứ ở đâu có con người xuất hiện là có tôn giáo.
Những ý thuyết trình trên đã làm cho buổi học giáo lí rất sôi động ở phần đề xuất thắc mắc và giải đáp thắc mắc:
+ Thưa cha, chúng con được học: Tôn giáo xuất hiện là do con người khi ấy còn dốt nát, còn khiếp sợ trước uy lực của thiên nhiên nên sinh ra tôn giáo. Giải thích như vậy có đúng không? Nếu sai, sai ở chỗ nào?
+ Thưa cha, nói tôn giáo là đặc điểm để phân biệt con người với con vật. Con vật không tôn giáo thì đúng rồi. Còn con người không tôn giáo thì chẳng lẽ không phải là người sao?
+ Thưa cha, Giáo lí Công giáo hiểu thế nào về học thuyết tiến hóa của Darwin ?
Đó là những thắc mắc viết gửi đến các cha để được giải đáp. Giải đáp rồi vẫn có thể còn có ý kiến phản biện, chưa thông của tham dự viên. Các cha giải đáp cho tới khi nào tất cả vỗ tay biểu lộ khẩu phục, tâm phục mới thôi.
Có một buổi học, tất cả thày trò đều bị mời ra Đồn Công an Hoàn Kiếm. Nói chính xác là các cha thuyết giảng bị mời, còn các tham dự viên cũng cùng đi theo các cha. Lí do bị mời chỉ đơn giản là: Số tham dự viên quá đông đã sai với khai báo ban đầu. Vì ban đầu, các cha có đơn trình báo với công an là: Hàng tuần, vào chiều thứ Ba, có buổi giảng giáo lí thường thức tại sân trường Dũng Lạc cho khoảng vài chục đến hàng trăm người tham dự. Nay con số đã lên tới trên hai ngàn người, quá sai với khai báo. Nên từ nay quyết định chấm dứt kiểu học quá ồn ào đó.
Những buổi học giáo lí trên được khởi sự từ giữa năm 1955 sang đến đầu năm 1956 thì bị cấm dẹp. Việc tổ chức giáo lí là việc làm thường xuyên của Giáo Hội nhằm nuôi dưỡng đức Tin cho giáo dân. Nhưng phải nói rằng khi ấy nó là một giải pháp tự vệ kịp thời, chặn lại những thế lực vô thần đánh vào đức Tin, muốn cho tôn giáo sớm lụi tàn mà không cho quyền tự vệ.
Dầu sao thì đây cũng là một nỗ lực lớn của cha Thông, cha Oánh và cha Quynh, đã kịp thời làm được việc ích lợi cho Giáo Hội trong những ngày đầu SỐNG CHUNG.
28. MUỐN LẬP BAN ĐẠI DIỆN CÔNG GIÁO
Hồi còn làm thư ký Tòa Giám mục Hà Nội, cha Quynh và Đức cha Khuê đã một lần tiếp kiến thủ tướng Phạm Văn Đồng. Trong lần gặp gỡ ấy, thủ tướng ngỏ ý muốn lập một Ủy ban làm sợi dây liên lạc giữa Nhà nước và Giáo Hội. Đức cha Khuê và thủ tướng đều đồng thuận chọn cha Quynh làm đại diện phía Giáo Hội.
Vâng lệnh Đức cha Khuê, cha Quynh đã tiến hành bàn với phía Nhà nước vấn đề đó. Về chức năng và quyền hạn, cha Quynh đề nghị: Ủy ban này phải được bình đẳng, được liên hệ hàng ngang với Ban Tôn giáo Chính phủ, tương tự như mô hình tổ chức Hòa bình ở Ba Lan. Nhưng phía Nhà nước không nghe. Họ bảo Ba Lan 90% Đạo, còn ở Việt Nam làm thế không được.
Sau đó 3 lần, luật sư Nguyễn Thành Vĩnh, một người Công giáo miền Nam tập kết ra Bắc, đã viết thư trao đổi với cha Quynh muốn tiếp tục bàn việc thành lập Ủy ban này, nhưng cha Quynh đã không trả lời cả 3 bức thư ấy. Điều đó làm cho ông luật sư Vĩnh tự ái.
Tôi (người chép chuyện) tình cờ đọc trên báo La Croix (Thánh Giá), một nhật báo Công giáo Pháp, bắt gặp bài viết của ông Vĩnh đã thể hiện lòng tự ái đó. Dầu sự kiện đã qua đi lâu năm rồi, ông Vĩnh vẫn còn oán hận cha Quynh. “Tại sao ông Quynh không trả lời tôi? Điều ấy nói lên ông là người không có thiện chí.”
Lúc đó tôi còn lơ tơ mơ chuyện này, đã hỏi cha Quynh:
- Ông ấy viết đến bức thư thứ ba mà sao cha vẫn im lặng không trả lời?
- Im lặng là một cách trả lời rồi.
- Con chưa hiểu.
- Sao mà tối dạ thế! Ông ấy lấy tư cách gì mà đòi bàn với tôi. Ông ấy là một giáo dân, không thể đại diện cho Nhà nước. Tôi đại diện Giáo Hội phải bàn với đại diện Nhà nước. Cái đầu phải bàn với cái đầuCái đầu sao lại đi bàn với đầu gối. Có thế mà không hiểu.
Sau cùng thì cái Ủy ban đại diện ấy vẫn được nặn ra. Lấy tên dài lê thê là: ỦY BAN LIÊN LẠC NHỮNG NGƯỜI CÔNG GIÁO YÊU TỔ QUỐC YÊU HÒA BÌNH gọi tắt là ỦY BAN LIÊN LẠC CÔNG GIÁO (UBLLCG) do linh mục Vũ Xuân Kỷ thuộc Địa phận Hà Nội đứng đầu. Mặc dầu vậy, họ vẫn cảm thấy cái UBLLCG này yếu ớt thế nào ấy. Vì thế, trước ngày UBLLCG ra mắt một tuần tại Nhà Hát Lớn Hà Nội, Nhà nước vẫn còn cử một phái viên đến gặp cha Quynh, tha thiết mời cha giữ chức chủ tịch UBLLCG thay cha Vũ Xuân Kỷ. Nhưng cha Quynh vẫn cương quyết từ chối.
Tuy nhiên, để tỏ thiện chí, cha Quynh khuyên UBLLCG trước khi ra mắt nên vào chào Đức cha Khuê và xin phép ngài cho hợp phép Hội Thánh. Nhưng cha Vũ Xuân Kỷ đã không làm theo gợi ý của cha Quynh. Vì thế, tổ chức UBLLCG chỉ hợp pháp với Nhà nước nhưng bất hợp lệ với Giáo Hội.
29. CHUYỆN VÔ HIỆU HÓA UBLLCG
Tại Hà Nội, linh mục Vũ Xuân Kỷ và mấy linh mục Kháng chiến đã đứng ra thành lập UBLLCG. Như đã nói trên: Đó là tổ chức hợp pháp với Nhà nước nhưng bất hợp lệ với Giáo Hội. Vì thế cũng chính từ Hà Nội, Nhà Đạo đã kiên quyết phản bác và làm vô hiệu hóa UBLLCG.
Đức Giám mục Trịnh Như Khuê đã thẳng thừng phạt treo chén linh mục Vũ Xuân Kỷ và linh mục Nguyễn Tất Tiên thuộc Địa phận Hà Nội dưới quyền ngài. Rồi cha Đinh Lưu Nhân ở Nam Định là cha chính Địa phận và cha Phạm Hân Quynh, quản lí Nhà chung Hà Nội tiếp tục cộng hưởng với Giám mục mình đã mạnh mẽ, can đảm, góp sức làm hạn chế hoạt động của UBLLCG.
Cha Nhân đã soạn thảo ra một bản Thông Cáo in rônêô, lí lẽ rất vững chắc, rõ ràng để phản bác và lên án UBLLCG, một tổ chức lấy danh nghĩa Công giáo mà không được Đấng bản quyền Công giáo cho phép. Tổ chức đó chỉ mưu đồ chia rẽ nội bộ Công giáo, quậy phá Đạo theo kiểu gậy ông đập lưng ông mà thôi. Bản Thông Cáo của cha Nhân đã được phát tán kịp thời khắp vùng Nam Định, Hà Nội và lan ra cả ngoài Địa phận Hà Nội như Thái Bình, Bùi Chu, Hải Phòng.
Cha Quynh còn hăng hái hơn nữa, ngài đã cho in hai vạn lá thư kêu gọi giáo dân phải cảnh giác và tẩy chay cái gọi là UBLLCG vì nó gây chia rẽ, nhằm phá sự hiệp thông của Giáo Hội Công Giáo. Cha Quynh đã tận tay phát thư đó suốt từ Lạng Sơn đến Thanh Hóa, Nghệ An, nghĩa là suốt chiều dài miền Bắc. Cứ đến Địa phận nào, cha cũng nhờ thanh niên Công giáo dùng xe đạp phân phát ngay đến các giáo xứ, giáo họ trong Địa phận. Cũng cần kể thêm câu chuyện xuất xứ lá thư có liên quan đến Đức cha Hoàng Văn Đoàn:
Chuyện là, Địa phận Bắc Ninh, láng giềng với Hà Nội, có Đức cha Hoàng Văn Đoàn không di cư đi Nam mà ở lại với Địa phận như Đức cha Khuê. Ngài có ngoại hình to cao như Tây, lại có thêm bộ râu quai nón rậm rạp. Chẳng hiểu sao, khi UBLLCG ra đời, ngài lại có bức thư “chào mừng” thật lạc điệu với tinh thần các Giám mục miền Bắc lúc bấy giờ. Bức thư ấy đã gây chối tai cho dân Chúa, nhất là hàng Giám mục, Đức khâm sứ Dooley và các linh mục như cha Nhân, cha Quynh. Cùng thời gian đó, Đức cha Đoàn có đi thăm mấy giáo xứ, ngài bị du kích địa phương bắt, đánh gãy chân vì nhầm tưởng là người Pháp.
Nhân tai nạn này, Đức Khâm sứ yêu cầu ngài qua Hồng Kông chữa trị. Giáo dân am hiểu tình huống đã có câu ca dao
“Đức cha Đoàn đi Hồng Kông
Chân chữa có khỏi, chẳng mong gì về.”
Đúng với phán đoán nhạy bén của câu ca dao, Đức cha Đoàn sau khi chữa khỏi chân, đã không trở về Bắc Ninh nữa. Tòa Thánh đã chỉ định ngài làm Giám mục Địa phận Quy Nhơn, miền Nam Việt Nam.
Cha Quynh đã đến Bắc Ninh thức với Đức cha Đoàn một đêm trước ngày ngài đi Hồng Kông. Hai cha con đã trao đổi kĩ càng về vấn đề UBLLCG. Đức cha Đoàn đã ngộ ra và nhờ cha Quynh viết một thư ngỏ trần tình với tất cả Dân Chúa. Trước sau, ngài không hề ủng hộ tổ chức đó.
Bức thư ngỏ trần tình của Đức cha Đoàn đương nhiên có cả phần bình luận của cha Quynh đã giáng một đòn quyết định vào UBLLCG. Vì thế, họ ló mặt đến đâu cũng bị giáo dân tẩy chay, xa lánh. Cuối cùng chỉ vơ bèo vạt tép được một số giáo gian chẳng ra gì, đa phần đã bỏ Đạo lâu ngày vì mắc ngăn trở nọ kia; hoặc một số vì khù khờ, dại dột, hám lợi nên mới tham gia.
Vì bức thư ngỏ trên, công an đã mời cha Quynh cha Căn là cha chính xứ Nhà Thờ Lớn đến trụ sở Công an hỏi “việc công cần”. Cha Căn thì vô can vì chẳng biết chuyện gì. Còn cha Quynh nhận đã thực hiện lá thư đó theo ý nguyện Đức cha Đoàn nhờ.
Công an hỏi cha Quynh:
- Tại sao ông lại làm việc lôi thôi đó?
Cha Quynh trả lời:
- Đây chỉ là chuyện bất đồng trong nội bộ Công giáo.
- Dầu sao ông cũng nên rút kinh nghiệm. Bận sau đừng làm như thế nữa.
- Đồng ý. Bận sau Đức cha Đoàn có nhờ, tôi cũng không giúp nữa.
- Ông biết tiếp thu thế là tốt! Thôi mời hai ông về.
30. CHUYỆN DÂNG LỄ QUAY XUỐNG
Những chuyện đã chép trên cho thấy cha Quynh là một linh mục trẻ rất năng động, thông minh, cương trực và pha chút tinh ranh. Đó là những hoạt động bề nổi dễ thấy của cha. Ngoài ra, cha còn là một linh mục có nhiều thao thức trong lòng với Hội Thánh; có nhiều suy tư thần học sâu sắc và mới mẻ muốn được canh tân.
Chuyện dâng Thánh lễ quay xuống sau đây nói lên khát vọng nồng cháy muốn được canh tân của cha: Trong một dịp các cha Địa phận Hà Nội về tĩnh tâm tại Tòa Giám mục, đến lượt cha Quynh dâng Thánh lễ (các cha dâng lễ tại nhà nguyện được sắp xếp theo thứ tự A, B, C) cha đề nghị với Đức cha Khuê:
- Hôm nay xin Đức cha cho phép con làm thí nghiệm dâng Thánh lễ quay xuống.
- Để nói lên điều gì?
- Thưa, Thánh lễ có giáo dân tham dự là chóp đỉnh của đời sống Kitô giáo. Họ phải được hiểu về Thánh lễ, cùng hiệp dâng, cùng phụng vụ Lời Chúa. Chủ tế dâng lễ quay xuống là một cách biểu lộ cụ thể sự hiệp nhất cùng một bàn tiệc, cùng tham dự lễ nghi Bẻ Bánh như thuở Giáo Hội ban đầu. Dâng lễ quay lên như hiện nay, lại đọc bằng tiếng Latinh làm cho giáo dân không hiểu gì nên hờ hững, chia trí, chẳng ơn ích là bao.
- Được, cha cứ làm thử xem sao? Nhưng nhớ chỉ là ở đây thôi. Chưa được phép phổ cập ra Nhà thờ đâu nhé!
Hôm ấy, cha Quynh dâng Thánh lễ quay xuống xong, có nhiều cha tấm tắc khen hay, ý nghĩa. Cũng có cha bình luận: Mới lạ quá, e có nhiều dị biệt. Một cha cũng xin phép Đức cha cho ngài được làm thử lễ quay xuống. Đến phần đọc câu: “Dominus vobiscum” (Chúa ở cùng anh chị em), đáng lẽ vì làm lễ quay xuống nên chỉ ngẩng mặt lên một chút và giơ tay đọc thì ngài lại theo phản xạ quen thuộc cũ, quay lại phía sau (quay 180 độ), giơ tay đọc câu đó. Thành thử miệng đọc Chúa ở cùng anh chị em mà chỉ nhìn thấy Chúa ở cùng bàn thờ, ở trong Nhà chầu mà thôi! Các cha dự lễ hôm ấy được một mẻ bịt miệng nín cười.
Mười năn sau, Công đồng Vatican II, trong văn kiện “Hiến chế về Phụng vụ Thánh” mới thay đổi lễ Misa được làm bằng tiếng bản xứ, giáo dân được tham dự phần phụng vụ Lời Chúa, linh mục được làm lễ quay xuống. Và mười năm sau nữa, Giáo Hội Việt Nam mới đồng loạt thực hiện sự canh tân này.
Như vậy là cha Quynh đã dâng Thánh lễ quay xuống tại Nhà nguyện Hà Nội trước Công đồng Vatican II mười năm và trước các Nhà thờ tại Việt Nam khoảng hai mươi năm. Vì thế có người gọi yêu cha Quynh là linh mục chuyên “cầm đèn chạy trước xe hỏa”.
31. NHÌN LẠI BA NĂM CHA QUYNH Ở HÀ NỘI
Năm 1988, cha Quynh được giải quản sau 28 năm bị quản chế. Đức cha Nguyễn Tùng Cương, Giám mục Hải Phòng vẫn cử cha Quynh ở lại xứ Xuân Hòa, Tiên Lãng (địa điểm quản chế cuối cùng) làm cha xứ. Tôi đã có dịp vào trò chuyện với cha một đêm cho bõ bao năm cha con xa cách. Quá nửa đêm, cha phải đi ngủ để lấy sức làm lễ sáng mai. Lúc đó tôi mới ngồi ghi chép lại cuộc trò chuyện dưới dạng bài phỏng vấn. Xin được rút ra phần cuối đoạn ghi chép đó:
Hỏi: - Thưa cha, năm 54- 55 tại Hà Nội, Nhà Đạo ta nói chung và cá nhân cha nói riêng, con nghĩ là đã kịp thời làm được mấy việc rất quan trọng là:
1) Vận động hàng giáo sĩ ở lại, bám đất, chấp nhận sống chung với cộng sản.
2) Hạn chế tác hại của CCRĐ đối với cuộc sống Đạo và Đời trong vùng nông thôn Công giáo.
3) Tổ chức những buổi giáo lí mở rộng kịp thời để giới trẻ có chút vũ khí tự vệ trước làn sóng tấn công ào ạt vào đức Tin Công giáo.
4) Vô hiệu hóa UBLLCG.
Xin cha cho biết 4 thành tích trên có đúng và đủ chưa?
Đáp: - Ờ, có nhẽ 4 việc làm đó là chính đấy. Chính tôi cũng chưa bao giờ để ý đến việc đúc kết xem mình đã làm được những gì. Thường chỉ nghĩ mình đang làm gì và sẽ phải làm gì.
Hỏi: - Cha có thể cho con biết thêm một vài chi tiết cụ thể về 3 năm cha làm linh mục Hà Nội nữa không?
Đáp:- Việc vận động giáo sĩ ở lại, tôi đã có lần nói với chú sơ qua rồi. Đó là lệnh của Đức cha Khuê. Có điều tôi đã triệt để thi hành nên các cha muốn di cư cho tôi là đầu nêu, là chủ mưu và đã xúm vào tấn công tôi quá thể. Tôi không dám ở Nhà chung, phải lánh mặt sang ở nhà in Têrêsa với cha Mai. Có một lần, trong cuộc đấu khẩu căng thẳng, bị các cha di cư xúm lại đả kích tôi tới tấp, có cha Phước muốn bênh tôi, muốn làm đồng minh với tôi, nhưng tôi cũng không cần sự đồng minh đó. Vì rằng cha Phước là linh mục Hải Phòng, cha ở xứ Đông Triều, thuộc vùng kháng chiến, nên nhãn quan chính trị của cha Phước cũng tương tự như cha Kỷ, cha Tiên ở Hà Nội. Không hiểu sao lúc ấy cha Phước lại có mặt ở đây. Các cha di cư đã sừng sộ với tôi:
- Giáo dân đi, chúng tôi cũng phải đi. Tại sao ông lại cố tình cản chúng tôi?
Cha Phước lúc ấy đã chêm vào:
- Là kẻ chăn chiên, chưa chi đã tưởng là có sói, rồi bỏ đàn chiên mà chạy. Như thế chẳng phải là hèn sao?
Các cha di cư bảo cha Phước:
- Ông là linh mục cộng sản, chúng tôi không thèm nói chuyện với ông.
Còn tôi nói với cha Phước:
- Bỏ đàn chiên mà chạy là điều không nên. Song cũng chưa tác hại bằng ở lại với chiên, thấy sói lại đem nộp đàn chiên cho sói.
Vừa khi cha Mai ở đâu đến đã kịp giải cứu tôi, khoác vai tôi đi.
Tôi ở nhà in Têrêsa với cha Mai nên cũng còn làm được một việc cần thiết nữa. Đó là tranh thủ in ấn một số sách báo mà sau này có muốn cũng không làm được.
Hỏi:- Xin cha nói rõ thêm một chút về nhà in Têrêsa?
Đáp:- Nhà in Têrêsa mặt trước trông ra Hồ Hoàn Kiếm, mặt sau có cổng ở phố Nhà Chung và có cửa hàng Sách Báo Công Giáo. Trước kia là trụ sở báo Avenir du Tonkin, Nhà chung Hà Nội đã mua lại, giao cho cha Giuse Trần Văn Mai làm giám đốc. Nhà in được trang bị những máy in tối tân nhất thời bấy giờ.
Hỏi:- Hồi đó cha đã in được những sách báo gi?
Đáp:- Tôi thấy trong kho còn bao nhiêu giấy tốt đều lấy ra cho in hết. In Sách Kinh, Sách Bổn, Sách Tóm Bốn Phúc Âm. Rồi những loại sách mỏng nhỏ như: Giáo dân Dâng lễ, Cộng đồng Phụng ca, những loại này tôi cho in với số lượng rất lớn, hàng chục vạn bản.
Hỏi: - Cha Mai không có ý kiến gì sao?
Đáp:- Cha Mai thấy tôi in quá nhiều cũng hơi e ngại. Ngài sợ khi Đức cha có kế hoạch in gì thì không còn giấy.
Tôi bảo cha Mai không lo. Đang lúc còn dở giăng dở đèn phải làm mau kẻo không kịp. Và đúng thế, theo chính sách của chế độ mới thì không thể có nhà in tư nhân. Nhà in của tôn giáo lại càng không thể có. Vì thế, nhà in Têrêsa đã phải bán cho Nhà nước với giá 60.000đ nhưng không được lấy tiền mặt mà bắt đặt tài khoản ở ngân hàng. Chỉ có cha Mai được đến rút tiền ra chi tiền ăn cho Nhà chung.
Hỏi: Thưa cha, con nghĩ việc in ấn sách này cũng là một việc làm quan trọng và kịp thời lúc ấy. Coi như việc quan trọng thứ 5, có đúng không ạ?
Đáp: (Cha cười) – Tùy chú. Thôi tôi đi ngủ đây.
- Vâng. Con cám ơn cha. Chúc cha ngủ ngon.
-
Cha Quynh - tranh sơn dầu

CHƯƠNG NĂM
CHA QUYNH
VỀ HẢI PHÒNG
32. VÌ SAO CHA QUYNH VỀ HẢI PHÒNG
Ngày 28/4/1956, cha Quynh về Hải Phòng. Có thể nói đây là một biến cố lớn nhất trong đời linh mục của cha. Thật vậy, cha Quynh nguyên quán là người Phát Diệm nhưng chỉ ở quê hương 9 năm thời thơ ấu. Xuất thân là linh mục Hà Nội nhưng cha cũng chỉ ở Hà Nội vẻn vẹn có 3 năm. Còn Hải Phòng là nơi ngài ở suốt chiều dài cuộc đời còn lại. Vậy, vì sao mà biến cố quan trọng này đã đến với ngài?
Phải chăng ngài tự chọn? – Không đúng. Đức Giám mục Trịnh Như Khuê đẩy cha đi? – Không đúng. Nhà nước cộng sản muốn trục xuất cha khỏi Hà Nội? – Không đúng.
Thế mà có người đã suy đoán như vậy. Thực ra Thiên Chúa đã sai cha đi, qua một vị “ngôn sứ thời hiện đại” là Đức Giám mục Phêrô Maria Khuất Văn Tạo. Và cha Quynh đã mau mắn đáp lời: “Này con xin đến để thực thi ý Chúa”.
Xin được kể đôi dòng về lịch sử Đức cha Tạo: Đức cha sinh năm 1900 tại giáo xứ Hà Thạch, huyện Bát Đạt, tỉnh Phú Thọ, thuộc địa phận Hưng hóa. Năm 1933, ngài lãnh nhận chức linh mục. Sau đó ngài được giao chức Giám đốc Tiểu chủng viện Hưng Hóa. Năm 1954, Đức cha Trương Cao Đại và các linh mục Hải Phòng di cư vào Nam. Địa phận Hải Phòng trống tòa, không chủ chăn.
Ngày 7/5/1955, Tòa Thánh ban sắc lệnh chính thức đặt linh mục Khuất Văn Tạo làm Giám mục Tông tòa, coi sóc Địa phận Hải Phòng. Nhưng mãi đến ngày 7/2/1956, lễ tấn phong Giám mục mới có dịp được cử hành cách âm thầm tại Nhà nguyện Sơn Tây, do Đức cha Gioan Maria Mazé Kim, Giám mục Hưng Hóa chủ phong (lúc ấy Tòa Giám mục Hưng Hóa tạm rời về nhà thờ Sơn Tây vì thị xã Hưng Hóa đã bị tiêu thổ kháng chiến).
Ngày 28/4/1956, Đức cha Phêrô Maria Khuất Văn Tạo mới chính thức về nhận Địa phận Hải Phòng. Trên đường từ Sơn Tây về Hải Phòng, Đức cha Tạo có ghé qua Tòa Giám mục Hà Nội. Trưa hôm đó, Đức cha Trịnh Như Khuê mời vị Tân Giám mục ở lại dùng bữa cơm, gọi là tiệc chiêu đãi cho trịnh trọng. Trong bữa tiệc ấy có mặt khá đông dàn linh mục Hà Nội. Đức cha Tạo than thở với Đức cha Khuê:
- Nhìn hàng linh mục của Đức cha dồi dào vững mạnh thế này, chẳng bù cho Địa phận con sắp đến coi sóc: linh mục đã ít ỏi lại toàn già yếu cả. Xin Đức cha thương chi viện cho Hải Phòng con vài linh mục thì tốt quá!
Đức cha Khuê tỏ vẻ thông cảm đáp:
- Số linh mục Hà Nội tuy có nhiều hơn Hải Phòng, nhưng cũng chưa phải là đủ. Có đâu mà giúp ngài vài linh mục… Thôi thế này nhá: Ngài với con là chỗ bạn học cũ, ngài đã cất lời hỏi xin thì con cũng giúp ngài một linh mục thôi. Chỉ một linh mục, tùy ngài chọn đi!
- Vâng. Con xin cám ơn Đức cha.
Đức cha Tạo đứng lên, đi một vòng quanh bàn ăn. Ngắm kĩ dung nhan từng cha. Còn các cha nơi bàn tiệc thì có lẽ được một phen trống ngực đập thình thịch hồi hộp. Đức cha Tạo đi vòng thứ hai thì dừng lại nơi cha Quynh. Khẽ xách tai cha:
- Con xin Đức cha linh mục nho nhỏ này thôi.
Đức cha Khuê trợn tròn mắt:
- Không được rồi! Đó là linh mục trợ lý của con đấy.
Đức cha Tạo về chỗ ngồi rồi nhẩn nha đáp:
- Có tất cả các cha đây chứng kiến: Ngài vừa nói ngài cho phép con tùy chọn. Con đã phải đi đến vòng thứ hai mới chọn xong. Xin Đức cha giữ lời hứa cho.
Đức cha Khuê đành nhăn mặt gượng cười chấp nhận.
Không hiểu sao mà Đức cha Tạo lại có con mắt tinh đời như thế. Địa phận Hưng Hóa là miền trung du, là vùng Kháng chiến, không mấy am tường các cha Hà Nội. Tại sao Đức cha Tạo lại chọn cha Quynh? Theo cách hiểu của người chép chuyện thì đó chính là việc Chúa chọn. Đức cha Tạo chỉ là “ngôn sứ”, là công cụ thực hiện ý Chúa mà thôi.
Phải nói thêm rằng: giả như lúc ấy Đức cha Tạo chọn linh mục khác thì việc chuyển về Hải Phòng là rất khó thực hiện bởi chính sách quản lý người rất khắt khe của nhà nước, nhất là đối với tôn giáo.
Nhưng riêng đối với cha Quynh thì lại dễ dàng. Giấy chuyển về Hải Phòng của cha là do Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký.
Tôi chép được câu chuyện trên là do chính Đức cha Tạo đã kể cho nghe. Hồi ấy tôi mới 19 tuổi, được Đức cha đối xử thân mật như hai ông cháu.
Còn cha Quynh, tôi cũng đã hỏi cha: “Cha nghĩ thế nào khi nhận lời về Hải Phòng?” Cha Quynh đã trả lời tôi: Rất toại nguyện! Bởi vì Hải Phòng đang gặp khó khăn nhiều hơn Hà Nội. Mà đời linh mục tôi là luôn muốn chọn “con đường cửa hẹp”.
33. ĐÔI NÉT VỀ ĐỊA PHẬN HẢI PHÒNG
Địa phận Hải Phòng không chỉ thuộc tỉnh Hải Phòng mà còn trải dài rộng khắp miền đông Bắc bộ. Kéo dài từ Móng Cái, Trà Cổ, giáp giới Trung Quốc, rồi qua tỉnh Hòn Gai, Quảng Yên, tạt ngang sang Đông Triều, Hải Dương và một phần tỉnh Hưng Yên nữa.
Vào thời điểm đầu năm 1954, Địa phận Hải Phòng có 83 linh mục triều, 07 linh mục dòng, 16 đại chủng sinh, 525 nhà thờ lớn nhỏ với 135.000 giáo dân (chiếm 9% trong tổng số 1,5 triệu người dân của cả tỉnh Hải Phòng).
Địa phận đang trên đà thăng tiến thì hiệp định Genève chia đôi đất nước Việt Nam. Thành phố Hải Phòng bỗng nhiên trở thành một sân ga, bến đợi khổng lồ cho dân di cư khắp các tỉnh miền Bắc đổ về để đi Nam. Đức cha Trương Cao Đại mới về nhận chức Giám mục Hải Phòng được hơn một năm cũng lên đường vào Nam cùng với khoảng 60.000 giáo dân, 79 linh mục và hầu hết thầy giảng, chủng sinh, các dì phước. Ngày ra đi, Đức cha Đại đã cắt cử cha già Giuse Bùi Khắc Hiệp, cha xứ Đào Xá chuyển về Nhà thờ Chính tòa làm cha chính Địa phận.
Địa phận Hải Phòng lúc này trở nên điêu tàn và kiệt quệ. Số linh mục còn lại đếm trên đầu ngón tay còn 11 cha. Trong đó cha Phước là linh mục mặt trận nên nếu chỉ phục vụ cho Giáo Hội được 50% thì số linh mục chính xác còn 10,5 cha! Các ngài phần lớn là hom hem già yếu. Song việc các ngài ở lại với Địa phận là rất hữu ích, can đảm, đầy hy sinh.
Nếu làm một phép tính nhẩm chia khối lượng công việc phục vụ Giáo phận cho mười cha rưỡi thì mỗi cha phải coi sóc 50 nhà thờ và 7.000 giáo dân ở 50 xứ họ rải rác trong 4 tỉnh từ Móng Cái, Trà Cổ đến Hải Dương, Hưng Yên. Bởi thế, nhiều nhà thờ, nhiều cơ sở tôn giáo của Địa phận đã bị mất vì thiếu người trông coi (chưa kể còn bị mất vì bị chiếm đoạt). Những cơ sở lớn bị mất như: nhà thờ xứ Đồng Giới, nơi có Nhà hưu dưỡng các linh mục Giáo phận, chỉ cách Tòa Giám mục chừng 10 km; Tiểu chủng viện Chân Phúc Liêm ở số 9 phố Bonnal đã bị chiếm làm trường Phổ thông Trần Phú; Trường Kẻ giảng Quảng Yên mới xây dựng chưa được một năm, các thày Kẻ giảng di cư hết nên đã bị chiếm làm doanh trại quân đội…Địa phận Hải Phòng có hàng trăm cơ sở tôn giáo như thế, không kể ra hết được đã bị chiếm dụng, xâu xé tả tơi!
Đức cha Phêrô Maria Khuất Văn Tạo và cha Laurenxô Phạm Hân Quynh đã về tiếp nhận địa phận Hải Phòng trong tình trạng kiệt quệ, tang thương, bi đát đó. Liệu hai thầy trò rồi sẽ chèo lái con thuyền Địa phận ra sao để khỏi chìm đắm, để đến được bến Bình An.
(Số thống kê trên dựa theo sách KỶ YẾU ĐỊA PHẬN HẢI PHÒNG và sách LỊCH SỬ ĐỊA PHẬN ĐÔNG…của Lm. Nguyễn Thanh Thảo)
34. BUỔI ĐẦU ĐẾN HẢI PHÒNG
Hải Phòng đón tiếp Tân Giám mục
Cho đến nay, trong các Giám mục Hải Phòng là người Việt Nam tôi được biết, thì Đức cha Phêrô Maria Khuất Văn Tạo có buổi đầu ra mắt Giáo phận đơn sơ khiêm tốn nhất. Một linh mục Hải Phòng hôm nay đi nhận xứ mới cũng còn long trọng hoành tráng gấp trăm lần Tân Giám mục về nhận Địa phận Hải Phòng hồi ấy.
Thật vậy, chiếc xe con của Tòa Giám mục Hà Nội cho mượn đã chở Đức cha Tạo và cha Quynh đến Hải Phòng. Xe qua cầu Hạ Lý, ngoặt vào đầu đường Lý Thường Kiệt thì dừng lại. Ở đấy có một mảnh đất trống. Giáo dân Hải Phòng đã chọn làm nơi nghênh đón vị Tân Giám mục của mình. Nơi nghênh đón không căng bạt, không có bục khán đài, chẳng có cờ hoa gì cả, chỉ có khoảng ngót trăm giáo dân tụ tập. Có một đội kèn đồng, tôi không rõ từ đâu đến, đã làm cho không khí buổi đón tiếp bớt tẻ nhạt.
Nghi thức đón tiếp Tân Giám mục sơ sài vắn gọn. Cha Quynh đọc sắc lệnh Tòa Thánh chính thức đặt Đức cha Phêrô Maria Khuất Văn Tạo làm Giám mục Tông tòa (Vicaire apostolique) coi sóc Địa phận Hải Phòng. Sau đó một đại diện giáo dân đã đọc lời chào mừng Tân Giám mục của mình. Cuối cùng, Đức cha có mấy lời đáp từ thân mật. Rồi tất cả cùng đi bộ về Nhà thờ Chính tòa, cách đó chừng 200 mét.
Những ngày đầu khốn khó
Những ngày đầu Đức cha Tạo và cha Quynh về Hải Phòng đã gặp khốn khó nhiều bề. Trước tiên phải kể là quá nghèo túng, thiếu tiền, thiếu gạo, phải chạy ăn từng bữa. Ban Quản lý Nhà chung do UBLLCG nắm giữ (chuyện tiếp sau sẽ kể rõ thêm). Đức cha Tạo đã tính đến cách: phải viết thư xin cộng đoàn Địa phận Hải Phòng tại miền Nam gửi tiền ra giúp đỡ. Nhưng cách đó rất khó thực hiện. Bởi vì tuy Bắc –Nam là con một nhà, là dân một nước song đã trở nên như hai quốc gia thù định. Mọi liên hệ, thông tin cá nhân đều bị cắt đứt. Muốn viết thư hoặc gửi tiền cho nhau phải gửi vòng qua một nước xa xôi khác rất là diệu vợi.
Trong những tháng năm gian khổ ấy, giáo dân Hải Phòng nhận ra cảnh thiếu thốn của chủ chăn, đã yêu thương, đùm bọc, nâng đỡ các vị chủ chăn với tất cả tấm lòng quảng đại. Có bà lão ở Lãm Hà mang mấy bơ gạo thắt trong ruột tượng, qua Cầu Niệm sợ bị khám xét tịch thu, nên đã phải đi vòng đến khúc sông vắng tìm đò ngang sang sông mang được số gạo đó vào bếp Tòa Giám mục Hải Phòng. Có giáo dân từ Xâm Bồ, cách Nhà thờ Chính tòa trên mười cây số, phải lặn lội đi từ nửa đêm để mang một con cá hay mớ tôm tép nhà đánh bắt được mong giúp các Đấng chủ chăn bớt kham khổ. Đức cha Tạo và cha Quynh được giáo dân nuôi dưỡng như thế, cho rau ăn rau, cho cá ăn cá. Cha Quynh vẫn thường kể lại những chuyện này.
Rồi cái khốn khó nữa là thiếu nhân sự. Quay đi quay lại chỉ có hai thầy trò, công việc mục vụ thì bề bộn mênh mông. Đức cha Tạo phải gọi thày Đản và cô Sa nữ tu ở Sơn Tây, thày Sức ở Bắc Ninh xuống Hải Phòng trợ giúp. Cha Quynh cũng về Hà Nội mang xuống Hải Phòng thày Triều (đang thất nghiệp bên nhà in Têrêsa). Cha còn mang xuống Hải Phòng một xe Díp (Jeep, ôtô con kiểu nhà binh) và tài xế là ông Lẫm để phục vụ việc đi lại của Tòa Giám mục. Ngoài ra ông Lẫm còn giúp nhiều việc vặt trong Nhà chung. Công việc bước đầu như thế đã tàm tạm. Thày Đản làm phòng bộ, thày Sức phụ trách đàn hát Nhà thờ, cô Sa dạy trẻ em giáo lý, dâng hoa…và kiêm cả việc bếp núc.
Vạn sự khởi đầu nan. Đương nhiên buổi đầu khó khăn còn rất nhiều. Nhưng thôi, không dám kể ra nữa, sợ quá dài dòng.
35. CHUYỆN 25 LẠNG VÀNG
Từ ngày cha Quynh về Hải Phòng, giáo dân xa gần đều rất thích nghe cha giảng Đạo. Cha dâng lễ ở nhà thờ nào thì người ta tuôn đổ về nhà thờ ấy, chủ yếu là để nghe giảng. Điều này ai cũng thấy rõ. Nhưng còn sự hấp thụ bài giảng, tiêu hóa bài giảng thành chất lượng cuộc sống được bao nhiêu thì lại khó thấy. Mẩu chuyện sau đây không mấy ai biết. Thiết nghĩ đã minh họa cho sự khó thấy đó:
Một hôm, có người đàn ông đứng tuổi đến gặp cha. Ông ấy nói thường xuyên vẫn được nghe cha giảng Lời Chúa. Nay muốn xin cha giải tội riêng cho ông. Ông ta giở túi xách lấy ra một bọc 25 lạng vàng, nói rằng đây là nửa tài sản của ông. Ông đã xét mình kĩ: Cả đời ông bóc lột nhiều người. Ông muốn chuộc tội đã làm điều bất công bằng cách trao cha số tài sản này để cha sử dụng vào việc nhà Chúa. Và xin cha làm phép giải tội cho ông.
Cha Quynh bảo: “Việc này tôi không được phép nhận. Để tôi dẫn ông sang Đức Giám mục xem ngài có hướng nào giải quyết cho ông.”
Hai cha con sang gặp Đức cha Tạo. Nghe cha Quynh trình bày sự thể, Đức cha lắc đầu bảo:
- Nhà Chúa chỉ sử dụng tiền của trong sạch, chính đáng. Không được phép nhận tiền của bất chính, bất công khi đã biết rõ. Ông hãy cầm số vàng này về, tự tay ông trao trả lại cho những người ông đã làm họ thiệt hại. Nếu không còn cơ hội gặp lại họ, ông hãy chia cho người nghèo khó quanh ông.
- Vâng. Con xin chào Đức cha cha! Con sẽ về làm theo lời Đức cha dạy.
Nửa tháng sau, ông ấy trở lại gặp cha Quynh và nói:
- Con đã giải quyết xong số vàng tội lỗi theo đúng ý Đức cha. Bây giờ xin cha giải tội cho con.
- Tốt. Ông hãy ngồi xuống ghế này! Ông hãy xét mình lại một lần nữa, rồi ăn năn tội. Tôi sẽ giải tội. Và Chúa sẽ tha tội cho ông.
Cha Quynh ngồi nghe hối nhân xưng tội với lòng cảm thông và thương mến. Ban bí tích Hòa Giải xong, cha pha trà, cha con cùng ngồi uống nước nóng. Cha hỏi ông:
- Ông thấy trong người lúc này thế nào?
- Thưa cha. Lúc này thân thể con như người mất trọng lượng. Con thấy lâng lâng nhẹ bẫng…Có lẽ vì đã trút bỏ được gánh tội nặng bấy nay. Con tạ ơn cha!
- Không. Chúng ta cùng tạ ơn Chúa.
36. HOẠT ĐỘNG CỦA UBLLCG HẢI PHÒNG
Ủy ban Liên lạc Công giáo ra đời tại Hà Nội. Với một số linh mục mặt trận không nhiều nên sức hoạt động cũng không vươn được xa, chỉ xoay quanh vài ba tỉnh giáp Hà Nội mà thôi.
Địa phận Hải Phòng thiếu chủ chăn, thiếu các linh mục trẻ giỏi giang, năng động nên đã trở thành mảnh đất thuận lợi cho UBLLCG Hải Phòng phát triển. Lúc ấy Địa phận có 2 linh mục mặt trận là cha Phạm Quang Phước và cha Võ Thành Trinh. Cha Phước vốn là linh mục gốc Hải Phòng. Thời 8 năm kháng chiến, cha coi xứ Đông Khê – Đông Triều là vùng chính quyền kháng chiến kiểm soát nên tạm đứt mối liên hệ với Tòa Giám mục. Sau năm 1955, cha Phước chuyển về coi xứ Hải Dương. Khi biết cha Phước là ủy viên mặt trận, Đức cha Tạo đã không cho hiệp thông với linh mục đoàn của Địa Phận nữa. Còn cha Võ Thành Trinh là linh mục miền Nam tập kết ra Bắc, tự trấn nhà thờ xứ Hòn Gai. Vì Địa phận bỏ trống cả vùng Quảng Ninh, thiếu linh mục cai quản nên cha quốc doanh dâng lễ ở đây vẫn có giáo dân đến tham dự. Nhưng họ vẫn áy náy sợ các Bí tích cha Trinh cử hành không thành. Nhiều người đã cất công về tận Hải Phòng để xưng tội hay tổ chức lãnh nhận Bí tích Hôn phối cho yên tâm.
UBLLCG Hải Phòng đã tung hoành hoạt động mà không gặp một trở ngại nào. Ngay các xứ họ trong nội thành như giáo xứ Chính tòa, An Tân, Nam Pháp, An Hải, Hàng Kênh… họ đều xâm nhập vào trong hàng ngũ Ban hành giáo, làm ông Chánh nọ, ông Trùm kia mà chẳng cần ai bầu cả. Thậm chí, tại Nhà thờ Chính tòa, Đức cha Tạo ở tầng trên, tầng dưới họ làm trụ sở. Họ treo một tấm biển to quay ra mặt phố với hai hàng chữ. Hàng trên chữ nhỏ: UỶ BAN LIÊN LẠC CÔNG GIÁO HẢI PHÒNG. Hàng dưới chữ to: BAN QUẢN LÝ TÀI SẢN CÔNG GIÁO.
Thật ngang ngược! Tình hình Địa phận Hải Phòng lúc bấy giờ khó khăn thế đấy! Họ quản lý Nhà thờ, họ quản lý tài sản tiền bạc Nhà chung, các dịp đại lễ, tổ chức to nhỏ ra sao là do họ bàn bạc định đoạt. Họ lập ra nhiều ban nọ bệ kia. Có Ban Tài chính (đi thu tiền nhà cho thuê ở ngõ Cố Đạo, ngày xưa Cố Đạo vẫn đi thu), có ban sửa chữa nhà cửa v.v…
Thành phần của họ là tạp nham, ô hợp. Nhất là có biểu hiện quậy phá Đạo, làm khổ các Đấng chủ chăn. Có lần một đám đông kéo đến đột nhập Tòa Giám mục, khủng bố Đức cha dữ tợn. Họ đã chiếm phòng khách, Đức cha vội lánh vào Nhà nguyện, áp bên phòng khách mở Nhà chầu để cầu cứu Chúa Giêsu Thánh Thể. Nhà nguyện chỉ bé chừng 20 mét vuông, cửa mở nhưng họ không dám vào. Họ chỉ ở phòng khách làm ầm ĩ:
- Để xem ông ấy có ở trong Nhà Chầu mãi được không.
- Ông phải ra đây để chúng tôi hỏi tội: Tại sao ông lại không cho cha Phước được dự Tuần tĩnh tâm?
- Ông phải xin lỗi cha Phước và hứa từ nay không được làm thế nữa thì chúng tôi sẽ tha cho ông…
Tầm trưa, thày phòng bộ lên, định lựa lời mời họ về để Đức cha dùng cơm và nghỉ ngơi. Họ đã có hành động thô bạo với thày. Kẻ đẩy thày ra, kẻ nắm áo giật lại. Khổ thân thày yếu ớt, chưa lách ra khỏi cửa thì họ đã đóng sập cửa lại, làm thày bị dập một ngón tay tím máu!
Cha Quynh đi làm lễ ở xa về, biết tình hình, vội cho người đi loan báo giáo dân các xứ ở giáp ranh thành phố kéo đến giải cứu cho Đức cha. Thời ấy điện thoại, xe máy chưa sử dụng đại chúng nên phải hơn hai giờ sau giáo dân mới kéo đến. Họ có khoảng 30 người, giáo dân khoảng 300 người nên đã đẩy lui họ một cách dễ dàng.
Những hành động thô bạo, phản bội, vạch áo cho người xem lưng của họ đã cảnh tỉnh giáo dân. Giáo dân gọi những người Liên Lạc là Lầm Lạc (UBLLCG là Ủy ban Lầm lạc Công giáo). Như ông Trùm xứ An Tân còn bán cả nhà xứ để làm trường câm điếc nữa (dầu ông ngù ngờ, bị dụ dỗ ép buộc). Ông ấy có đem thẻ tài khoản số tiền bán nhà xứ nộp Đức cha Tạo nhưng Đức cha không nhận. Vì thế, UBLLCG này dần dần mất tín nhiệm, họ bị cộng đoàn dân Chúa xa lánh và tẩy chay.
Thiên Chúa quan phòng đã sai Đức cha Tạo và cha Quynh về Hải Phòng đúng lúc. Giáo dân có chủ chăn như cá gặp nước. Cha Quynh lại có biệt tài thu hút giới trẻ Công giáo. Địa phận Hải Phòng từ chỗ sống âm thầm thoi thóp đã hồi sinh mau chóng. Những buổi lễ hội tưng bừng, những buổi hành hương rộn rã đã làm tăng sức sống cho Địa phận.
Từ ấy, một số người trong UBLLCG cũng thay đổi não trạng. Tuy vẫn làm cho mặt trận song chuyển sang cách sống dung hòa hơn, biết phục tùng các Đấng, không dám chọc chạch nữa. Họ tựa như lý trưởng tề hai mang thời kháng chiến vậy.
Giáo dân Hải Phòng hôm nay vẫn còn nhớ mặt, nhớ tên mấy ông Chánh, ông Trùm đó. Có người đã thực sự ăn năn sám hối và sống tốt lành vào cuối đời.
37. ĐỨC CHA TẠO
CHA QUYNH ĐI KINH LÝ
Đi kinh lý là một việc làm thông thường và cần thiết của Đấng chủ chăn đối với Giáo phận mình coi sóc. Nhất là Đấng chủ chăn đó lại mới về nhận nhiệm sở. Vì thế, Đức cha Tạo và cha Quynh sau khi sắp xếp công việc nhà tạm ổn là nghĩ ngay đến việc đi kinh lý các xứ trong Địa phận.
Cả một vùng rộng lớn, hai thày trò không thể đi một chuyến hết được nên chú trọng đến các xứ vùng xa xôi hẻo lánh đã từ lâu không có linh mục coi sóc. Ngài đến để yên ủi, nâng đỡ và khuyên bảo con chiên. Ban Bí tích Thêm sức cho những người chưa có dịp được lãnh nhận. Tháo gỡ ngăn trở, hợp thức hóa hôn nhân Công giáo. Sắp xếp tổ chức lại các giáo xứ, đặt các Ban hành giáo để họ lo tự quản, coi sóc và bảo vệ Nhà Chúa.
Đặc biệt lúc ấy vừa cải cách ruộng đất (CCRĐ) xong. Tình hình đời sống nông thôn nói chung còn đang tả tơi rơi rụng sau trận bão dữ thời cuộc có một không hai trong lịch sử. Các giáo đoàn được gặp chủ chăn mừng mừng tủi tủi như “đàn con gặp cha khi nhà vừa mất nóc”. Một số giáo dân bị mua chuộc, bị đe dọa, nhát sợ… đã chót tố điêu cho người khác, thậm chí con tố cha, vợ tố chồng, giờ đây xin được thú tội, ăn năn, lãnh nhận Bí tích Hòa giải.
Nhưng Đức cha Tạo dạy rằng: “Những tội phạm đến đức công bằng, đức thương yêu, đến sự thật…một cách công khai thì cũng phải thú tội công khai trước mặt những người đã chứng kiến việc lỗi sai của mình trước kia. Đặc biệt phải thú tội trước mặt nạn nhân mà mình đã gây nên.” Các giáo đoàn đều răm rắp làm theo lời dạy ấy. Xứ Xuân Hòa, xứ Súy Nẻo, xứ Đông Côn đều tổ chức buổi thú tội công khai ở nhà thờ từ 7 giờ tối đến nửa đêm mới xong. Đức cha Tạo và cha Quynh ngồi chứng kiến. Họ thú nhận rằng: “ Con là Maria T. trước đã chót dại tố điêu cho ông N. những chuyện này…chuyện này… làm ông phải chịu khốn khổ vì con. Nay con xin ông N. và cộng đoàn tha tội cho con.” Rồi sáng hôm sau vào Tòa cáo giải xưng tội thì mới được tha.
Nhờ có việc giải quyết hậu quả này mà tình làng nghĩa xóm đã bị sứt mẻ trong CCRĐ nay được hàn gắn, tình đoàn kết trong gia đình họ tộc bị đổ vỡ nay được phục hồi, những mối oán thù nay được hóa giải, cộng đồng dân Chúa lại sống trong chan hòa yêu thương. Cả làng giết lợn ăn mừng, rồi bầu lại Ban hành giáo mới.
Khi đoàn đi kinh lý chia tay một giáo xứ, cha con tình cảm bịn rịn đằm thắm, không muốn xa lìa nhau. Bà con muốn níu các Đấng ở lại lâu hơn để hỏi chuyện nọ chuyện kia, nhất là cách giữ Đạo và sống Đạo.
Nguyên Địa phận Hải Phòng đã rộng lớn rồi, Tòa Thánh còn giao cho Đức cha Tạo kiêm Giám quản Địa phận Bắc Ninh nữa. Vì từ năm 1955, Địa phận Bắc Ninh bị trống tòa: Đức cha Đaminh Hoàng Văn Đoàn, Giám mục Bắc Ninh đã được thuyên chuyển vào miền Nam làm Giám mục Quy Nhơn (chuyện số 29 đã kể rõ).
Trong thời gian Đức cha Tạo làm Giám quản Địa phận Bắc Ninh, ngài đã hai lần về kinh lý. Một lần về Bắc Ninh năm 1956 và lần khác về Thái Nguyên năm 1957. Trong hai lần đó, Đức cha cha Quynh đi thăm được 20 giáo xứ. Lần thứ hai, khi xe ôtô của hai thày trò về tới Nội Bài (Hà Nội) thì bị ách lại buộc phải về Hải Phòng ngay. Từ ấy Đức cha không được phép đến Bắc Ninh nữa.
Đức cha Tạo làm Giám quản Bắc Ninh đến năm 1963 thì Đức cha Phaolô Phạm Đình Tụng được bổ nhiệm làm Giám mục Địa phận Bắc Ninh.
38. TIỂU CHỦNG VIỆN “CHUI”
Như ta đã biết, Địa phận Hải Phòng khi ấy quá thiếu thốn linh mục. Cha Quynh nhận trách nhiệm với Đức cha Tạo gánh vác lo liệu việc khó khăn này. Cha nghĩ: Muốn có linh mục kế cận, trước mắt phải thu gom được một số người trẻ có Ơn gọi để làm chủng sinh. Tiếp đến là phải có chủng viện đào tạo. Chủng viện Hà Nội hiện bị đóng cửa, Tiểu chủng viện Chân phúc Liêm Hải Phòng không còn nữa. Chẳng lẽ cứ bó tay ngồi chờ thời sao?
Cha Quynh xông xáo đi tìm tòi chiêu sinh. Cha nhắm vào các chú trước kia đã từng giúp lễ. Nội thành có chú Tần, chú Thịnh. Ngoại thành: ở Xâm Bồ, cha tìm được chú Hiệu, Nam Am có chú Số, chú Hiển, Đồng Xá có chú Đài…Cha còn lần mò lên tận Hà Đông, Thạch Bích (thuộc Hà Nội) là nơi mấy năm trước cha đã coi sóc phục vụ. Ở Thạch Bích có chú Luân mồ côi cha mẹ từ bé, ở với bác là cha xứ Thạch Bích. Cha bác đã cho chú Luân vào học Tiểu chủng viện Hà Nội được hơn một năm thì phải nghỉ vì thiếu sức khỏe. Khi cha Quynh đến Thạch Bích, cha sở than phiền với cha Quynh: “Con đang định thải Luân về quê. Có đi tu nữa cũng chỉ ăn hại cơm nhà Đức Chúa Lời.” Cha Quynh bảo: “Sao lại thế? Khi khỏe thì nuôi, khi ốm thải về là không nên. Thôi, cha không nuôi thì để con xin mang về Hải Phòng.”
Cha Quynh còn mang chú Uy ở giáo xứ Hà Đông về nữa. Như vậy là cha đã thu gom được gần hai chục chú về Tòa Giám mục Hải Phòng. Đức cha Tạo hài lòng nhìn cha Quynh vẻ trìu mến nói:
- Bước tiếp theo, cha định giải quyết ra sao?
- Thưa Đức cha, các chú này trình độ văn hóa không đồng đều. Con dự định chương trình một năm đầu là bổ túc cho các chú đủ học lực phổ thông, bắt đầu học theo chú có trình độ thấp nhất, các chú khá hơn coi như ôn tập.
- Được, cứ thế! Ngoài chức Thư ký Tòa Giám mục, giờ xin cha nhận thêm chức Giám đốc Tiểu chủng viện “chui”, kiêm luôn chức giáo sư giảng dạy. Tôi nhận dạy hai môn là Giáo sử và môn Latinh. Còn đâu cha dạy hết.
Cha Quynh mỉm cười, đứng thẳng người:
- Con xin tuân lệnh! …Thưa Đức cha, có còn chức nào nữa không ạ?
- À còn một chức quan trọng nữa là Quản lý Tòa Giám mục. Cha hãy lo cho các thày Tiểu chủng viện có chỗ ăn, chỗ ở đàng hoàng.
- Thưa Đức cha. Chức này là khó nhất, quá sức con đấy.
- Đúng thế! Nhưng tôi tin là cha làm được. Ở Hà Nội, cha đã có kinh nghiệm giữ chức này mà.
Nhà chung đang lo lương thực cho mấy thày trò hàng ngày đã khó rồi, nay lên tới ba chục miệng ăn, đâu phải chuyện dễ! Tuy vậy, các gia đình có con em đi tu cũng tự thấy có trách nhiệm đóng góp, nên chuyện lương thực hằng ngày, cha Quynh cũng giải quyết xong.
Có điều vấn đề chỗ ở tưởng đơn giản thế mà lại khó hơn chuyện ăn. Bởi vì chính sách quản lý Hộ khẩu: Ai không có hộ khẩu thường trú không được ở trong Nhà chung. Thỉnh thoảng có đêm bất chợt công an đến gõ cửa, đòi vào kiểm tra hộ khẩu. Lúc ấy các thày chủng sinh lại mắt nhắm mắt mở chạy tán loạn, kẻ leo lên trần nhà, người chui vào nhà kho để đồ hôi hám, tất cả nằm im như con gián cho đến khi báo yên. Gọi là Chủng viện “chui” thật đúng cả nghĩa bóng lẫn nghĩa đen. Việc học hành ban ngày thì không lo lắm. Chỉ là chuyện cha con đóng cửa bảo nhau. Làm gì có trường lớp, có giáo sư nào đến giảng dạy đâu?
Khóa Chủng viện“chui”Hải Phòng hồi ấy là một khóa đặc biệt lắm gian nan trắc trở. Cha Giám đốc dạy chưa hết khóa thì đã bị bắt đi không án. Một thời gian sau cha tìm cách gửi giáo trình về cho các tu sinh có tài liệu học tiếp. Rồi Chủng viện Hà Nội mở cửa. Đức cha Tạo đã gửi các tu sinh Hải Phòng lên Hà Nội học. Nhưng vì chính sách thất thường, chẳng bao lâu sau, Chủng viện Hà Nội lại bị đóng cửa. Các tu sinh đành phải giải tán, ở đâu trở về đấy. Có người nói:
“ Thời nay mà chọn đường tu
Chữ tu liền với chữ tù ngay thôi!”
Quả đúng vậy. Phần lớn các tu sinh “chui” Hải Phòng đã lần lượt phải đi tập trung cải tạo. Thầy Luân 14 năm, thầy Đài 17 năm, thầy Sức hơn 20 năm, Thầy Đản đã hy sinh Tử Đạo tại trại Cổng Trời…Khó khăn gian khổ là thế nhưng ai bền đỗ đến cùng sẽ được Chúa chọn.
Sau này thầy Hiệu, thầy Số, thầy Hiển, thầy Đài, thầy Luân… cũng đã được chịu chức linh mục.
39. CHUYỆN THẦY TỊNH
Trong lúc Địa phận đang khan hiếm giáo sĩ, lại có một người đến Tòa Giám mục xin đi tu. Người đó là thầy Tịnh, quê Nghệ An, đã học xong Tiểu Chủng viện Xã Đoài. Đức cha giao cho cha Quynh xem xét giải quyết. Cha Quynh bảo thầy Tịnh:
- Thầy từ Nghệ An ra Hải Phòng xin cư trú là khó đấy. Nếu thầy tự lo được giấy tờ hợp lệ, ở đây sẵn sàng tiếp nhận thầy.
- Vâng con cám ơn cha. Con đã chuyển khẩu ra Hải Phòng rồi ạ. Con chỉ còn xin tạm trú ở Nhà chung nữa thôi.
- Được, thầy cứ làm đủ thủ tục giấy tờ xong đi.
Thầy Tịnh đã có đủ giấy tờ hợp pháp, được vào ở trong Nhà chung. Thầy ở một phòng trên gác, cạch phòng cha Quynh. Thầy Tịnh dáng người to cao, khỏe mạnh, trầm tính, không ưa tiếp xúc nhiều với giáo dân, nhưng lại thích tiếp xúc với người ngoại quốc. Các chuyên gia Ba lan, Tiệp khắc ngày Chúa nhật, đi lễ xong thường tạt lên phòng thầy Tịnh trò chuyện.
Tôi không thân với thầy lắm, song cũng có đôi lần vào phòng thầy chơi. Thầy có những đồ dùng khá sang thuộc hàng ngoại quý hiếm: xe đạp Tiệp, máy ảnh Đức, đồng hồ tay Balan… Đương nhiên đây là hàng ngoại của phe Xã hội Chủ nghĩa. Nhưng thời ấy, có tiền cũng không dễ mấy ai mua được những thứ này. Tôi tấm tắc khen:
- Sao thầy giỏi thế! Sắm toàn đồ quý hiếm!
- Con quen mấy tay chuyên gia. Có thứ họ cho, có thứ họ mua hộ.
- Thảo nào thầy thích chơi với người ngoại quốc.
- Con chơi với họ không phải vì ba cái thứ đó. Cái chính chỉ là để luyện tiếng Pháp thôi.
Có lần tôi hỏi cha Quynh về thầy Tịnh. Cha cho biết: Khi thầy Tịnh mới đến, cha đã hỏi Tòa Giám mục Xã Đoài. Đúng là thầy Tịnh đã học hết chương trình Tiểu Chủng viện trong đó. Vì chưa có điều kiện học Đại Chủng viện nên thầy Tịnh cũng như một số thầy khác đã giải tán.
- Bố có hỏi về hạnh kiểm không?
- Có. Nhưng chú không nên hỏi ta kĩ làm gì.
***
Hồi ấy cha Quynh có một cái radio Philips bé bằng viên gạch chỉ, cha mang từ Pháp về. Cha quý nó vì nó là một phương tiện cần thiết để nắm bắt tin tức hàng ngày. Thế rồi bỗng dưng cha bị mất trộm cái đài đó. Hậu quả việc mất trộm gây ra lắm tai hại. Cha Quynh như người bị bịt tai, chẳng còn biết được các tin tức xảy ra hàng ngày nữa. Không chỉ có thế: các tu sinh đâm ra nghi ngờ lẫn nhau. Mối nghi ngờ tập trung nhiều vào thầy Luân. Vì chỉ có thầy Luân là nghèo nhất, không gia đình, không một đồng xu dính túi.
Thầy Luân cũng cảm nhận được các bạn đồng môn đang có con mắt nghi ngờ mình, có thể là cả các Đấng cũng nghi mình là tên ăn trộm. Song thầy chỉ im lặng, không tìm cách thanh minh, nghĩ có tật đâu mà phải giật mình.
Khi ấy tôi có hỏi cha Quynh:
- Bố có biết ai lấy trộm đài của bố không?
- Biết.
- Ai thế bố?
- Chú quá tò mò rồi!
Tôi lẩm bẩm như nói với mình dòng suy đoán:
- Nếu là người trong nhà lấy, ắt phải bán đi chứ không dám để lại dùng.
- Thế mà chẳng bán, cũng chẳng để lại dùng. Chú chỉ được cái đoán mò. Thôi không nói chuyện này nữa.
- Vâng. Con hiểu rồi.
- Chú hiểu rồi là hiểu thế nào?
- Con hiểu: Chẳng bán, chẳng để lại dùng thì chỉ có cho, tặng, hoặc đổi chác…Và như thế con đã hiểu ai rồi.
Cha Quynh véo vào vai tôi một cái thật đau:
- Cũng tiểu xảo ra phết!
Rồi cha con cùng cười. Cha vừa bảo không nói chuyện này nữa, nên tôi quay sang hỏi cha chuyện khác:
- Thưa cha, hồi này họ có hay vào kiểm tra đêm không ạ?
- Có. Mới cách đây độ một tháng, nửa đêm họ vào giường các tu sinh vén màn, không thấy ai. Họ liền trèo lên trần nhà, sục vào nhà kho, chiếu đèn pin tìm tòi mãi, cũng chẳng thấy ai. Có lẽ giờ thì họ thôi rồi.
Tôi ngạc nhiên hỏi:
- Bố ơi, các tu sinh ẩn đâu mà tài thế?
- Bí mật nhá! Từ ngày thầy Tịnh đến, tôi không cho các tu sinh ngủ trong Nhà chung nữa. Ai nhà ở nội thành như chú Tuy, chú Thịnh thì ngày đi tu, đêm về với gia đình. Còn ai ở xa thì đêm tạm lánh ra nhà giáo dân quanh đây. Có điều, ở đêm trong Nhà chung phải bí mật, không ở nữa cũng phải bí mật. 9 giờ tối, tắt đèn, buông màn, rồi mới lặng lẽ rút ra ngoài. Vì thế mới có cuộc kiểm tra đêm như vừa kể. Chú hiểu chưa?
- Con hiểu rồi. Con tiểu xảo, còn bố thì đại xảo.
- Đó chỉ là phép thử để biết cho rõ thôi.
***
Thầy Tịnh“đi tu”ở Tòa Giám mục Hải Phòng được 4 năm. Ngày 8/10/1960, cha Quynh bị bắt đưa đi quản chế ở Đồng Giới cũng là ngày thầy Tịnh hoàn thành nhiệm vụ. Chỉ ba ngày sau: ngày 11/10/1960, thầy Tịnh đã lặng lẽ rút khỏi Tòa Giám mục Hải Phòng không một lời từ biệt.
40. ĐOÀN THANH NIÊN CẦU NGUYỆN
XỨ AN TÂN
Xứ An Tân nằm trong thành phố Hải Phòng, cách nhà thờ Chính tòa chưa đầy ba cây số. Hồi chưa có sự kiện di cư, An Tân là xứ Đạo sầm uất, có ca đoàn nổi tiếng hát hay nhất Địa phận, có những lễ hội và những buổi kiệu rước long trọng như rước Đức Mẹ Fatima từ nhà thờ Chính tòa về nhà thờ An Tân.
Sự kiện di cư 1954 đã làm cho An Tân trở nên kiệt quệ điêu tàn. Cha xứ đi Nam, Ban hành giáo và giáo dân cũng đi Nam gần hết. Cả quả chuông trên tháp, cả đàn phong cầm để phục vụ Thánh lễ cũng mang đi!
Gia đình tôi cũng định di cư, nhưng vì vướng tôi đã vọt lên Hà Nội nói là để xem chế độ mới ra sao, nên không đi được. Tôi đã ở lại Hà Nội và thi vào học trường Đại học Văn khoa. Phải nói rằng thời kì bấy giờ việc giữ Đạo bị kì thị và khó khăn hơn ngày nay nhiều. Có lẽ tôi là sinh viên duy nhất người Công giáo. Ở đây, hàng tuần tôi đi tham dự giáo lý tại sân trường Dũng Lạc trong Nhà chung Hà Nội. Thỉnh thoảng đến nhà thờ Hàm Long dự buổi cầu nguyện buổi tối với giới trẻ. Chương trình cầu nguyện ở đây cũng mới mẻ và hấp dẫn tôi. Vì thế, tôi chỉ học được một năm là bị đuổi.
Trở về Hải Phòng, thành phố cũng vừa chuyển sang chế độ mới. Gia đình tôi không hề oán trách tôi về tội vì tôi mà gia đình phải ở lại không đi Nam. Cũng không hoạnh họe tôi vì sao bị đuổi học. Nhưng lại rất vui mừng thấy tôi trở về vẫn còn toàn vẹn đức Tin.
Lúc này Địa phận Hải Phòng rệu rã tan hoang. Ngôi nhà thờ An Tân, giáo xứ nơi gia đình tôi sống, tối tối chỉ còn vài ba bà già ê a đọc kinh. Buồn quá! Tôi mơ ước tạo dựng nơi đây có một đoàn thanh niên cầu nguyện sốt sáng như giới trẻ nhà thờ Hàm Long Hà Nội đã làm. Nhưng hiềm nỗi tìm đâu ra thanh niên Công giáo bây giờ?
Ông trùm xứ An Tân là người trong Ủy Ban Liên Lạc Công giáo, ở cùng xóm với gia đình tôi. Một hôm ông ấy đưa cho tôi giấy mời đi họp Mặt trận Tổ quốc. Đến nơi, tôi thấy thành phần tham dự toàn là người Công giáo trong nội thành Hải Phòng. Phần nhiều là người đứng tuổi, giới trẻ không có mấy. Tôi không quan tâm đến nội dung cuộc họp hôm ấy nói gì. Tôi chỉ để ý xem có ai là thanh niên thì làm quen. Ngồi gần có một chàng thanh niên cũng chạc tuổi tôi. Chúng tôi làm quen với nhau cách dễ dàng. Đó là bạn Phêrô Chinh, ở phố Trại Cau, cùng xứ họ An Tân với tôi. Chúng tôi có chung một nguyện vọng là muốn khơi lại sự sống Đạo đang bị thoi thóp tại nhà thờ An Tân.
Hai chúng tôi đã bắt tay thành lập ĐOÀN THANH NIÊN CẦU NGUYỆN (ĐTNCN) xứ An Tân. Lẽ ra thay chữ ĐOÀN bằng chữ NHÓM thì hợp và khôn ngoan hơn. Thế mà lúc ấy chúng tôi lại dại dột dùng chữ ĐOÀN. Chỉ vì chữ ĐOÀN mà chúng tôi phải chịu bao rắc rối lôi thôi! Nay có giấy gọi lên Đồn, mai lại có giấy gọi lên Sở bắt giải tán. Chúng tôi không chịu giải tán thì bắt chúng tôi phải làm đơn xin đăng kí thành lập ĐOÀN. Chúng tôi cãi chữ ĐOÀN đây không phải là một tổ chức như các ông quen hiểu, đây chỉ là một số thanh niên đến nhà thờ thực hiện việc tín ngưỡng của mình theo thông lệ mà thôi.
Tối cầu nguyện đầu tiên có 5 nam và 7 nữ. Càng về sau càng đông hơn. Chương trình cầu nguyện có đọc kinh, có hát thánh ca, có đọc bài Phúc âm, rồi lời suy niệm và cầu nguyện tự phát. Tôi dựa theo mô hình nhà thờ Hàm Long Hà Nội đã làm, nhưng còn thiếu phần đọc một vài ca vịnh, vì chúng tôi không có quyển Cựu Ước nào (hồi ấy cũng chưa có sách Giờ Kinh Phụng vụ như ngày nay) nên chưa soạn ra được.
ĐTNCN xứ An Tân thành lập chưa được bao lâu thì địa phận Hải Phòng có Đức cha Phêrô Maria Khuất Văn Tạo và cha thư kí Laurenxô Phạm Hân Quynh về coi sóc. Ngoài những công việc bộn bề tại Tòa Giám mục Hải Phòng, cha Quynh còn nhận quản nhiệm 3 xứ là An Tân, Nam Pháp, và Xâm Bồ. Từ ấy, An Tân cũng như Nam Pháp, Xâm Bồ đã có Thánh lễ ngày Chúa Nhật. An Tân vì ở gần Tòa Giám mục hơn nên thỉnh thoảng còn có Thánh lễ sáng ngày thường. Có Thánh lễ ắt phải có ca đoàn hát lễ. ĐTNCN xứ An Tân cũng trở thành ca đoàn xứ An Tân luôn.
Thỉnh thoảng ban tối, cha Quynh đạp xe đến An Tân tập hát cho chúng tôi. Một số bài chúng tôi quen hát cha bảo: “Bỏ bỏ, hay thì có hay nhưng sai giáo lý”. Những bài về Đức Mẹ như: “Mẹ ở con về, Mẹ Maria ơi!” Cha bảo tình cảm quá, nhưng sao Đức Mẹ lại chỉ ở nhà thờ? Bài hát: “Trên con đường về quê mà vắng bóng Mẹ, con biết cậy vào ai…” Cha bảo: Thế còn Chúa Cha, Chúa Con, Chúa Thánh Thần đâu. Đi Đạo chỉ có mỗi Mẹ thôi sao? Những bài về Chúa Giêsu, về Thánh Thể xưa nay chúng tôi quen hát như bài: Nguồn yêu thương (Ôi âu yếm tình Cha muôn vàn), bài: Suối Thiêng (Êm đềm triền miên, nơi Nhà Chầu vắng, Cha ngồi chờ mong), bài: Thờ lạy Chúa (Hồi tưởng xưa kia, Cha đã hy sinh nằm Thánh giá). Cha bảo: Chúa Cha là Chúa Cha, Chúa Con là Chúa Con. Những bài hát này ca từ xưng hô loạn xạ cả, Chúa Con lại biến thành Chúa Cha, chẳng còn ra thể thống gì nữa!
Cha Quynh đã tập cho chúng tôi một số bài hát khác, có cũ, có mới, cả bài hát Latinh đã chuyển lời sang tiếng Việt như bài Tantum ergo để hát Chầu Thánh Thể. Rồi bài Giữ Tình Duy Nhất, dựa theo điệu nhạc Valse dans l’ombre rất quen thuộc với mọi người. Lúc ấy giới trẻ chúng tôi mỗi khi có dịp sum họp thường hay hát bài này và gọi vui là bài KẾT ĐOÀN (một bài hát thông dụng của chế độ mới).
ĐTNCN xứ An Tân chúng tôi cũng được cha hỗ trợ, cung cấp cho một số bài ca vịnh thích hợp để giờ cầu nguyện thêm phần sốt sáng. Chúng tôi đọc ca vịnh chia làm hai bè như ngày nay các hội đoàn làm giờ Kinh Phụng Vụ vậy.
Trong nhóm chúng tôi có một chàng tên Bông, trông vẻ khù khờ song lại thông thạo đàn nhạc, chàng được phân công tập hát cho chúng tôi. Giờ cha Quynh đến với chúng tôi, cha còn phát hiện ra chàng Bông có một khả năng độc đáo nữa: đó là đánh máy chữ mười ngón cực siêu. Chàng trước đây đã học trường dòng Saint Joseph Hải Phòng, nên giỏi ngoại ngữ. Đánh máy văn bản tiếng Pháp, tiếng Latinh cũng nhanh như đánh máy tiếng Việt. Cha Quynh đã tuyển dụng chàng lên Tòa Giám mục làm nhân viên chuyên đánh máy chữ. Nhờ có Bông đánh máy, lớp Chủng viện “chui” mới có đủ tài liệu học một cách thuận lợi. Nhờ có Bông, các ca đoàn An Tân, Nam Pháp, Xâm Bồ mới có đủ sách hát cộng đồng, ĐTNCN An Tân mới có các tập ca vịnh để làm giờ cầu nguyện.
Cha Quynh vốn có biệt tài thu hút giới trẻ, ĐTNCN xứ An Tân gặp cha Quynh như diều gặp gió, tiến lên vùn vụt. Nhớ lại buổi ban đầu chỉ có 12 thanh niên nam nữ. Nay tối tối trên dưới một trăm thanh niên làm giờ cầu nguyện. Tất cả thanh niên Công giáo Hải Phòng đều đổ về An Tân. Tối nào An Tân cũng như ngày hội, trai gái vang tiếng cười câu hát. Có một bạn trẻ đã làm thơ để ca ngợi công ơn cha Quynh đối với An Tân. Bài thơ có tựa đề
BẾN THIÊN AN.
Ai đã qua đây bến Thiên An
Cái bến đò xưa xác xơ tàn
Những người năm trước giờ đâu nhỉ
Hay đã lặng chìm dưới sóng tan?
Một dẫy nhà tranh, lũy tre xiêu
Xụp đổ tan hoang dưới sóng triều
Bao hồn vùi lấp theo đợt sóng
Chỉ còn trơ lại xóm cô liêu.
Thế rồi có một khách phương xa
Đến bến Thiên An dựng lại nhà
Bỏ tiền bỏ sức ngăn dòng nước
Thiên An từ ấy đẹp như hoa.
Từ ấy Thiên An rợp bóng cờ
Đời vui như hội, đẹp như mơ
Như muôn ánh sáng bình minh đến
Cung đàn chân lý bật dây tơ.
Chiều nay có dịp ghé Thiên An
Cái bến đò xưa xác xơ tàn
Dân cư đông đúc vang câu hát
Ca ngợi thanh bình, dậy không gian.
LINH CHI
41. THÀNH “RÙA” VÀ NHÓM NGŨ LINH
Thành “rùa” làm thư kí cho UBLLCG Hải Phòng. Hàng ngày anh ta có mặt tại trụ sở Ban Quản lí tài sản Công giáo, ngay tầng dưới Tòa Giám mục. Trụ sở này có hai cửa ra vào đối diện nhau; một cửa quay ra mặt phố, hẹp hơn, thường khép kín, còn một cửa quay vào Nhà chung, chỉ cách chân cầu thang gác chừng 4 mét, nơi lên Tòa Giám mục và phòng cha Quynh.
Giáo dân mỗi khi có việc ra vào Nhà chung, thường nhìn Thành “rùa” như một tên “giáo gian” ngồi đấy để theo dõi người ra vào, ghi sổ bẩm báo. Có lẽ anh ta cũng đọc được cái nhìn của giáo dân như vậy.
Thành “rùa” làm việc vẻ cần mẫn, có mặt tại trụ sở đầy đủ giờ giấc. Trang phục luôn lịch sự chỉnh tề. Mùa hè cũng như mùa đông, ra khỏi nhà là có mũ phớt trên đầu. Anh ta tuy làm việc cho UBLLCG, song dáng vẻ tao nhã, có học, không ngổ ngáo, quậy phá như bọn người ô hợp kia. Thành “rùa” còn tỏ ra có cảm tình với cha Quynh. Thi thoảng anh ta vẫn thậm thụt chạy lên phòng cha dăm mười phút, khi mượn cuốn truyện mang xuống trụ sở ngồi đọc, khi tâm sự với cha vài câu bằng tiếng Pháp. Có lúc anh ta cũng mua một cuốn sách biếu cha.
Thành “rùa” là người xứ An Tân. Nhà anh ta áp sát tường bao nhà thờ, chỉ cách cung thánh một đường kiệu chừng 4 mét. Không biết từ bao giờ, anh ta đã đục bức tường bao một cửa nhỏ thông sang đất nhà thờ. Chỉ khi An Tân có lễ, cánh cửa nhỏ đó mới mở ra, có lẽ là để người trong nhà anh ta đi lễ cho tiện.
Có đôi lần Thành “rùa” đã mời chúng tôi vào nhà chơi bằng lối qua cửa nhỏ này. Lần nào chủ nhà cũng pha trà nóng, tiếp đãi chúng tôi một cách thân tình.
Chúng tôi có 4 người rất thân nhau, cùng có chút máu văn chương, đi đâu cũng thường đi với nhau. Trong đó ba người là thuộc xứ An Tân, chỉ có An là người Hà Nội, quê ở một xóm giáo bên bờ đê Yên Phụ. An xuống Hải Phòng học trường Đại học Hàng Hải, đã tìm đến ĐTNCN xứ An Tân cùng tham dự việc đạo đức ban tối với chúng tôi. Chúng tôi thỉnh thoảng lên phòng cha Quynh chơi. Lần nào đến, Thành “rùa” cũng trông thấy. Anh ta nháy mắt chào chúng tôi cách kín đáo. Phòng cha Quynh thường chỉ khép cửa chứ không khóa. Chúng tôi đến, có lần cha vắng nhà chúng tôi vẫn vào ngồi chơi, đợi cha về.
Bốn người chúng tôi có biệt danh là nhóm Ngũ Linh. Bởi vì một lần trong lúc ngồi đợi cha về, chúng tôi đã tình cờ đọc được tập sách cha viết tay, trong đó có những bài đoản văn, cha viết na ná như kiểu thơ văn xuôi. Thì ra cha cũng có máu văn chương. Tập sách này có bút danh là Linh Thanh. Vì sẵn lòng ái mộ cha nên bốn chúng tôi cũng đặt bút danh cho mình có chữ “Linh”. Cha là Linh Thanh, còn chúng tôi là Linh Sơn, Linh Hải, Linh Ân, và Linh Chi. Như vậy, ghép cả cha vào nữa mới thành Ngũ Linh.
Thành “rùa” cũng có chút máu văn chương nên có vẻ quý nhóm Ngũ Linh. Một lần đã mời chúng tôi vào nhà và đọc cho nghe thơ anh ấy làm. Tôi còn nhớ một câu lục bát trong bài MƯA XUÂN:
“Mưa như rây bột lưng trời
Lá rơn rớt lệ sầu ơi là sầu!”
Chúng tôi bảo thơ Xuân mà sao anh viết buồn quá vậy?
Thành “rùa” đáp: Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Cụ Nguyễn Du đã nói thế mà.
Lần khác vào dịp Tết, anh ta ra một vế câu đối:
“Sợ nắng kinh mưa bảo vệ đầu, mũ nhỏ cầu an khó khó”. Rồi bảo bốn chúng tôi đối đi! Nghe chúng tôi đối xong, anh ta thở dài nói: “Anh rõ thật là thằng hèn. Nghe các chú đối sao mà hồn nhiên, trong sáng, đáng yêu thế! Như chú Chinh đây, anh viết: “mũ nhỏ cầu an khó khó” Chú đã đối lại: thân gầy đón gió nghênh nghênh. Đúng là thân thể chú có gầy yếu song tinh thần thì đầy mạnh mẽ, vẫn dám nghênh nghênh đón gió vô tư. Tuyệt quá!
Thấy Thành “rùa” có vẻ tự thú, tôi hỏi thêm:
- Anh suốt ngày ngồi ở trụ sở… Giáo dân ra vào Nhà chung nghi anh, như thế có oan không?
Anh ta đánh bài ngửa:
- Chẳng oan tí nào. Các chú đến đại ca Linh Thanh, anh cũng báo cáo hết. Còn ối Gia-ve[1]. Thiên hạ hôm nay nhiều kẻ hèn lắm, chẳng riêng mình anh đâu.
Chúng tôi hỏi anh về biệt danh “rùa” có từ nơi đâu? Anh ấy đã trả lời:
- Mình dáng người cao ráo, cổ cũng cao, nhưng đi đâu thì quen chụp mũ trên đầu, và cổ hơi rụt lại như con rùa nên họ gọi là Thành “rùa”.
- Thì ra là vậy.
Cái biệt danh “rùa” đã vẽ nên được phần nào chân dung nhân vật Thành, cộng thêm vế câu đối anh ta đã ra càng khắc họa rõ nét hơn. Một mẫu người hèn thời đại.
Tuy nhiên, Thành “rùa” thật tội nghiệp, đáng thương hơn đáng trách. Chúng tôi nghĩ vậy.

CHƯƠNG SÁU
THỜI KÌ CĂNG THẲNG
42. CHUYỆN HẠ KHẨU HIỆU
Thời ấy, xứ An Tân nhận Thánh quan thầy là Đức Mẹ núi Ca--lô. Cha quản nhiệm Laurenxô Phạm Hân Quynh đã cho giáo xứ mừng lễ quan thầy đúng ngày 16 tháng 7 như trong lịch Công giáo.
Tối hôm 15/7/1957, sau khi cùng ĐTNCN làm giờ cầu nguyện xong, rất đông các bạn trẻ đến từ những xứ họ nội thành đã vào phòng khách để chuẩn bị tập hát tổng hợp. Bông, ca trưởng của An Tân, ôm cây đàn ghi-ta với tư thế sẵn sàng. Minh “tồ, nhà ở ngay cổng sau nhà thờ, thường chỉ dự với ĐTNCN trong nhà thờ rồi về, không thích ở lại tập hát. Song tối nay thấy đông vui cũng nán lại chuyện trò tào lao rôm rả.
Minh “tồ” hơn chúng tôi dăm tuổi. Anh tính tháo vát, lợi khẩu, thường nói nhiều hơn người mình đang đối thoại. Có lẽ vì thế mà anh có phụ danh là tồ. Nhưng chúng tôi thấy anh ấy nói vẫn lí lẽ đâu ra đấy chứ chẳng tồ tí nào. Trước chúng tôi, anh thường tỏ ra đàn anh, nắm vai trò tham mưu, chỉ đạo. Lúc ấy tôi đề nghị Bông cho tiến hành tập hát. Khối lượng bài hát La-tinh tối nay là khá nhiều. Có những bài một năm chỉ hát có một lần như bài Ca nhập lễ phải tập kĩ, còn các bài như: Kyrie (Xin thương xót), Gloria (Kinh vinh danh), Credo (Kinh Tin kính)…thì chỉ ôn tập qua, vì tuần nào cũng hát rồi. Nhưng Minh “tồ” lại gạt ý kiến tôi:
- Tập hát thì vội gì. Chẳng mấy khi đông vui như tối nay. Để anh em chuyện trò thêm tí đã... mùa hè cũng không ngủ sớm được mà…nào chúng ta uống nước đi!...xem bình nước gì nào…Ồ nước chanh quả mà chưa có đá!…cô Hạnh, cô Yến đâu? Chạy đi mua ngay khay đá về đây.
Hạnh, Yến mua nước đá mang về bỏ vào bình. Rồi báo:
- Ở ngoài cổng nhà thờ có người lạ đang đóng đinh treo khẩu hiệu gì đó lên cổng.
- Để tôi ra xem!
- Để tôi ra xem khẩu hiệu gì?
Lợi tính nóng nảy, nói xong là chạy đi liền. Minh “tồ” và vài người nữa cũng lững thững đi ra cổng Nhà thờ. Còn nhiều người tò mò muốn đi song tôi đã cản lại mời uống nước, rồi tập hát.
Lúc ấy đã hơn 9 giờ tối. Mọi hôm thì giờ này nhà thờ An Tân chẳng còn ai. Hôm nay lại khác, còn khá đông thanh niên. Vì thế hai người lạ mặt treo khẩu hiệu lên tường cổng nhà thờ đã bị phát hiện, ngăn chặn kịp thời. Lợi sẵng giọng:
- Yêu cầu các anh mang đi chỗ khác mà treo. Chúng tôi không cho phép treo ở đây.
- Đây là khẩu hiệu của Nhà nước, muốn treo đâu thì treo, không ai có quyền ngăn cản.
Minh “tồ” và vài ba thanh niên nữa đã ra đến nơi. Anh bảo Lợi:
- Hãy bình tĩnh! Để mình xem giấy này viết gì đã.
Đó là một tờ giấy hình chữ nhật, to khoảng 1 mét vuông. Có kẻ vài hàng chữ bằng mực màu xanh đỏ như kiểu tờ quảng cáo chiếu bóng. Nội dung viết:
Nhiệt liệt hoan nghênh Đại Hội Ủy ban Liên lạc Công giáo yêu Tổ quốc yêu Hòa bình thành phố Hải Phòng. Họp tại Nhà Hát Lớn thành phố ngày 16.7.1957 Chúc Đại Hội thành công tốt đẹp.
Minh “tồ” nói với hai người lạ mặt:
- Đây không phải là khẩu hiệu của Nhà Nước như các anh hiểu. Đây chỉ là một tờ quảng cáo của nhóm người mang danh Công giáo. Chắc là họ thuê các anh làm. Chúng tôi là chủ sở hữu khu vực này, chúng tôi có quyền không cho bất cứ ai kẻ vẽ hoặc dán giấy lên tường nhà chúng tôi. Vậy yêu cầu các anh mang ngay đi cho!
- Vâng. Các anh thông cảm, chúng tôi là cửa hàng làm quảng cáo. Họ đã thuê chúng tôi trọn gói, cả viết và đi treo ở đây. Còn chuyện nội bộ Công giáo các anh, chúng tôi không biết. Nếu không đồng ý, các anh cứ việc hạ xuống.
Lợi trừng mắt:
- Nói thế mà nghe được à? Thế người ta thuê các anh trát cứt lên tường nhà chúng tôi, các anh cũng làm. Còn chúng tôi không bằng lòng thì cứ múc nước rửa đi à?
Hai người lạ mặt này cũng không phải hạng vừa:
- Thế chúng tôi lí sự cùn với các anh. Chúng tôi không phải là người treo tờ giấy này, chúng tôi chỉ là người đứng xem thôi thì sao?
Minh “tồ” tặc lưỡi bảo Lợi:
- Thôi khuya rồi! Cậu cứ cuộn tờ giấy này bỏ vào nhà kho cho tôi! Mai có ai đến lấy thì trả họ. Không thì vứt đi. Giờ giải tán!
Mấy anh em kéo nhau trở vào phòng khách nhà xứ. Mỗi người làm một cốc nước mát cho đỡ bực mình. Cánh ca đoàn tổng hợp tập hát cũng vừa xong. Họ xúm lại hỏi chuyện ý ới một lúc rồi đóng cửa ra về. Hẹn nhau sáng mai gặp lại.
Quang cảnh nhà thờ An Tân buổi sáng lễ Quan thầy rộn rã tưng bừng. Người người lớp lớp từ những vùng lân cận đổ về tấp nập. Đúng 8 giờ, chiếc xe Jeep chở Đức cha Tạo và cha Quynh đến An Tân. Cha con vẫy chào nhau thắm thiết tươi vui. An Tân như sống lại thuở trước năm 1954, hồi còn cha Micae Trác coi sóc. Hôm nay cũng cờ hoa tưng bừng, cũng cung nghinh tượng Đức Mẹ Ca--lô quanh khuôn viên Nhà thờ và quanh tượng đài Chúa Kitô Vua.
Trong lúc đoàn kiệu rước đi đứng nghiêm trang, lời kinh tiếng hát hòa vang sốt sáng thì ở ngoài cổng nhà thờ có cuộc đụng độ làm huyên náo, mất trật tự. Khoảng chục người, đa phần là đàn bà đang làm ầm ĩ:
- Khẩu hiệu của chúng tôi đâu rồi? Tại sao lại hạ xuống?
- Chúng tôi cũng là người xứ An Tân. Chúng tôi có quyền treo chứ?
- Yêu cầu các người mang ngay ra đây trả chúng tôi!
Thấy mấy người làm ầm ĩ, lực lượng trật tự kéo ra thêm đông để dẹp. Họ chẳng biết mấy người này nói gì, chỉ biết đã làm mất trật tự nên đẩy bọn người điên ra khỏi khu vực nhà thờ. Số đông người ngoại giáo đứng xem ở đấy cũng tỏ ý bất bình. Họ nói: “Đúng là một lũ điên! Làm mất trật tự quá!”
Sự việc đụng độ trên chỉ là chuyện nhỏ. Hàng ngàn người đi dự lễ Quan thầy An Tân hôm ấy, không mấy ai biết đến chuyện đó. Cuộc rước kiệu Đức Mẹ và Thánh lễ do Đức cha Tạo chủ tế vẫn diễn ra sốt sáng, tốt đẹp.
Sau lễ Quan thầy An Tân hai hôm, anh Minh và Lợi bị cảnh sát khu vực đến nhà bắt. Chị gái anh Minh đi theo, được biết họ đã đưa hai người vào trại giam Trần Phú (175 Trần Phú, cách nhà thờ An Tân chừng 300m). Còn tôi có Giấy mời lên Sở Công an.
Riêng tôi đã lên Đồn, lên Sở vài ba lần rồi. Chẳng có gì đáng bối rối lo lắng. Cha Quynh thường đã dặn chúng tôi: “Khi đi hãy nhớ cầu nguyện. Phải bình tĩnh, đừng sợ hãi, cũng đừng nóng nảy! Phải tôn trọng người cầm quyền… Không cãi nhau tay đôi hay nói cướp lời họ… Khi nào họ cho nói mới nói…càng nói ít càng tốt… còn nói những gì thì khỏi phải lo. Chúa chẳng đã dạy: Anh em đừng lo phải nói làm sao hay phải nói gì, vì trong giờ đó Thiên Chúa sẽ cho anh em biết phải nói gì.Thật vậy, không phải lúc ấy anh em nói, mà là Thần Trí Chúa Cha nói trong anh em” (Mt 10, 19 -20). Chúng tôi đã áp dụng lời cha Quynh dặn và thấy quả là hiệu nghiệm.
Lần này tôi được mời làm việc tại Phòng 48. Một phòng chuyên biệt về Tôn giáo của Sở Công an thời bấy giờ. Viên công an làm việc với tôi mặc thường phục. Thái độ khá điềm đạm, lịch sự và đặc biệt am hiểu kĩ về đời tư tôi. Ông ta dạo đầu:
- Trông vẻ thư sinh thế này, hằng ngày kéo ba gác có mệt nhọc lắm không?
- Thưa ông, lao động thô sơ đương nhiên là mệt nhọc.
- Thế mà còn lập “Đoàn Thanh niên Cầu nguyện” cho rách việc. Để sức mà nghỉ ngơi. Giữ Đạo tại tâm thôi! Còn phải lo đến tiền đồ, tương lai mình chứ… Thôi, chuyện đó chúng ta sẽ nói với nhau vào dịp khác. Hôm nay chúng tôi gọi anh đến đây về vụ việc “Hạ khẩu hiệu” tại cổng nhà thờ An Tân… Chúng tôi biết các anh đều là thanh niên trẻ người non dạ. Còn bồng bột, dễ bị ông Quynh đầu độc, kích động, làm những công việc sai trái mà vẫn không biết là nguy hiểm cho sinh mệnh chính trị của mình.
Viên công an P.48 khen tôi là có chút văn hóa nên phải nhận thức ra được điều đó. Phải thấy được việc Minh và Lợi hạ khẩu hiệu là hành động phạm pháp. Và tôi phải nhận chịu trách nhiệm một phần trong đó.
Viên công an “giáo dục tôi một hồi dài. Rồi đưa cho tôi mấy tờ giấy có in sẵn tiêu đề: BẢN KIỂM ĐIỂM. Bảo tôi viết cho thật thành khẩn. Viết xong sớm về sớm.
Tôi từ chối viết kiểm điểm với lí do tôi không dính dáng gì vào chuyện “Hạ khẩu hiệu”. Mà chuyện này theo tôi, cả về tình về lí đều không có gì sai.
Viên công an vẫn bình thản cười ruồi:
- Được. Anh không viết cũng được. Vậy thì tôi sẽ lập biên bản, đặt vấn đề theo hướng của tôi và anh sẽ trả lời những vấn đề đó. Rồi kí vào biên bản. Còn viết kiểm điểm, không đơn thuần là nhận tội, mà là bản tường trình tự đánh giá về cá nhân hay tập thể của mình, đúng sai ra sao. Anh thử nghĩ xem, đằng nào thoải mái cho anh hơn… Giáo huấn của Đức Kitô có một điều rất hay là phải biết nhìn nhận tội lỗi mình. Có nhìn thấy tội thì mới ăn năn tội. Có ăn năn tội thì mới được tha và được khỏi tội.
Tôi thầm nghĩ: “Sa tan cũng giỏi dùng Lời Chúa để bẫy con cái Chúa”. Thôi được, tôi sẽ viết. Tôi cắm cúi viết một mạch hết 2 trang giấy. Trước tiên tôi gạch bỏ tiêu đề in sẵn BẢN KIỂM ĐIỂM thay bằng BẢN TƯỜNG TRÌNH. Rồi nội dung tôi viết về ba điểm. Tóm lược ý chính rằng:
1/ Các ông quá thành kiến, ác cảm với cha Quynh chúng tôi. Chụp mũ cho cha đã đầu độc kích động chúng tôi làm những việc sai trái, phạm pháp là hoàn toàn không đúng sự thật. Tôi làm chứng rằng cha Quynh không biết gì về chuyện hạ tờ giấy tại nhà thờ An Tân.
2/ Việc hai anh Minh và Lợi hạ tờ giấy treo ở cổng nhà thờ tối hôm ấy là việc làm chính đáng, chứ không có gì sai trái phạm pháp. Ở Hải Phòng có hàng trăm bức tường của tư nhân và cơ quan Nhà Nước đã đề chữ CẤM DÁN GIẤY. Nếu kẻ nào vẫn cố tình dán giấy (bất kể giấy quảng cáo, thông cáo, hay khẩu hiệu…) đều là sai trái. Như vậy kẻ sai trái đáng pháp luật bắt phạm là kẻ dán giấy chứ không phải là người cấm dán giấy. Việc bắt giam anh Minh và Lợi là vô lí.
3/ Nói rằng tôi phải chịu trách nhiệm một phần về “tội” cấm dán giấy lại càng không đúng. Bởi vì tôi chỉ chịu trách nhiệm về nội dung cầu nguyện trong nhà thờ An Tân. Còn những ai có tham gia cầu nguyện ở đây mà làm những việc gì khác ở bất cứ đâu thì thuộc về trách nhiệm cá nhân của người ấy. Sao tôi lại phải chịu trách nhiệm về mọi hành vi của những người đã đến nhà thờ An Tân? Vô lí quá!
Cuối cùng, bản tường trình của tôi đề đạt nguyện vọng: Mong được chính quyền đối xử công bằng, vô tư. Đừng vì định kiến nghề nghiệp mà đối xử oan sai cho ai. Cụ thể là cho anh Minh, anh Lợi sớm được trả lại tự do.
Viên công an xem song BẢN TƯỜNG TRÌNH tôi viết, môi mím lại, mắt lim dim suy nghĩ vẻ không hài lòng. Ông ta nói: “Anh viết chủ quan quá!”. Rồi bắt đầu “giáo dục, giải thích, uốn nắn lại từng điểm tôi đã viết.
Tôi để mặc ông ta nói. Tôi chỉ im lặng ngồi nghe. Nói chán rồi ông ta cắm cúi viết. Không hỏi tôi câu gì nữa. Viết xong, ông ta đọc cho tôi nghe, và bảo tôi ký vào biên bản. Nội dung tờ Biên Bản viết: Phần đầu là Sơ yếu lí lịch. Không cần hỏi tôi một câu. Ông ta viết đúng hoàn toàn. Phần hai là đã cho tôi tiến hành viết kiểm điểm. Nhưng bản kiểm điểm còn nhiều yếu tố chủ quan, chưa đạt yêu cầu. Phần ba là ông ta tiếp tục kiên trì giáo dục giải thích thêm để tôi nhận thức ra được vấn đề đúng sai. Biên bản tôi đã được xem lại và ký.
Tôi nghĩ thế là được rồi. Cũng cần phải biết mình biết người một chút. Tôi đã ký, rồi ra về.
Qua một tuần lễ, tôi thấy tình hình giáo dân An Tân đang bức xúc vì có hai người bị bắt. Thể theo nguyện vọng của bà con, tôi đã soạn ra một lá đơn, nhân danh Ban hành giáo, giáo dân An Tân, gia đình hai anh Minh và Lợi đề nghị Sở Công An và đồn Công An trả lại tự do cho hai anh: Phạm Văn Minh và Bùi Khánh Lợi đã bị bắt một cách vô lí. Tôi trao lá đơn đó cho ông trùm Phòng. Ban hành giáo đã hội ý nhất trí với gia đình hai anh Minh và Lợi đến Chúa nhật sẽ lấy chữ ký sau Thánh lễ, rồi cùng nhau mang đơn đi.
Chúa nhật ấy lễ xong, có khoảng ba trăm người ở lại để ký vào tờ đơn, rồi cùng nhau lên đồn Công an An Dương cách nhà thờ An Tân độ dăm sáu trăm mét.
Viên đồn trưởng thấy đám đông dân chúng kéo đến thì bối rối. Có lẽ đây là lần đầu tiên thành phố Hải Phòng dưới chế độ mới có sự kiện đám đông dân chúng kéo đến nơi công quyền để khiếu kiện. Xem xong lá đơn, viên đồn trưởng bảo: “Bà con cử vài ba vị đại diện vào làm việc với chúng tôi. Còn tất cả nên giải tán về đi! Ở lại chỉ gây mất trật tự thôi. Chẳng ích lợi gì đâu.”
Giáo dân nói:
- Chúng tôi sẽ giữ trật tự.
- Chúng tôi ở lại để xác nhận chữ ký của chúng tôi là có thật chứ không bịa.
- Chúng tôi muốn biết kết quả ra sao?
Viên đồn trưởng vào phòng trong gọi điện thoại. Chỉ 15 phút sau, một chiếc xe Com-măng-ca đã đến đỗ trước cửa đồn. Viên đồn trưởng giới thiệu với chúng tôi người vừa trên xe ôtô xuống: “Đây là Trung tá Lê, trưởng Phòng 48, sẽ làm việc với bà con.”
Thì ra người mà tôi đã gặp bữa trước trên Sở Công an là Trung tá Lê, trưởng Phòng 48. Viên Trung tá nói: “Thưa bà con. Pháp luật của Nhà Nước là nghiêm minh và công bằng. Nếu đã phạm pháp thì bà con có đấu tranh thế này hay hơn nữa cũng chẳng giải quyết được gì, có khi còn làm cho phức tạp thêm, nặng tội thêm. Nhưng nếu không có tội, hoặc chỉ vi phạm nhẹ thôi, pháp luật sẽ công minh, sớm trả lại sự công bằng cho đương sự. Như trường hợp hai anh Minh và Lợi đây, chỉ là vi phạm nhẹ, lại là lần đầu. Chúng tôi đã ký giấy tha từ chiều hôm qua. Nhưng vì chưa kịp làm thủ tục xuất trại. Hôm nay lại là ngày Chủ nhật nghỉ. Đầu giờ sáng mai là về cả thôi. Bà con đến đây hôm nay quả là một việc làm thừa, mất nhiều thì giờ vô ích. Thôi, rút kinh nghiệm nhé!”
Trung tá Lê bắt tay ông Trùm Phòng, bà Trương Đào, và mấy người đại diện ngồi hàng ghế trên. Rồi cắp cặp ra xe ôtô.
Sáng thứ Hai, anh Minh và Lợi đã được ra khỏi trại giam Trần Phú. Đúng như lời trung tá Lê nói.
Còn lệnh tha hai anh có từ khi nào? Có đúng như lời trung tá Lê nói hay không lại là một chuyện khác. Người viết không kiểm chứng được, tùy bạn đọc suy luận thôi.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét